Ba Nền Tảng Của Thiền

Tâm của mỗi chúng ta là một mớ ý niệm hỗn độn quay cuồng với nhau, quấn chặt với nhau dường như không thể tách rời hay dừng lại. Trong mớ hỗn độn quay cuồng đó, tâm ta hình thành một cảm giác chấp ngã mãnh liệt, ai cũng thấy mình là trung tâm của vũ trụ, khác với mọi người, mọi vật bên ngoài. Từ cái chấp ngã dữ dội này, chúng ta phát triển dần tham lam, hơn thua, ganh ghét, đố kỵ, luyến ái, hung bạo. Nhờ thiền định, tâm chúng ta được an tĩnh dần dần, mớ tâm thức hỗn độn đó được tháo gỡ hóa giải dần dần. Và đỉnh cao cuối cùng của thiền định là toàn bộ chấp ngã được diệt trừ, vô minh chấm dứt, hành giả đạt được giải thoát. 

Điểm chủ yếu của thiền định là đưa tâm vào an định, không suy nghĩ, không vọng tưởng nhưng vẫn tỉnh táo, tỉnh giác. Tuy nhiên, ai đã thực hành đều thấy rõ là không dễ đưa tâm vào an định. Vọng tưởng sẽ chập chờn lén lút phá quấy mãi. Người không đủ kiên nhẫn sẽ phải bỏ cuộc giữa đường. 

Từ thời Đức Phật, chính Phật cũng đưa ra nhiều phương pháp thiền định nhưng tất cả các phương pháp của Phật đều có tính nhất quán và liên hệ chặt chẽ với nhau. Theo thời gian, nhiều vị tổ sư, đại sư cũng giới thiệu thêm một số phương pháp khác. Mỗi người đến với thiền định cũng có năng khiếu khác nhau. Với phương pháp này có người thích hợp, có người không. Có người dễ nhiếp tâm vào định, có người khó nhiếp tâm vào định. 

Mỗi phương pháp cũng có ưu khuyết điểm riêng của mình. Có phương pháp thích hợp cho người căn cơ cao, có phương pháp thích hợp cho người căn cơ thấp. Có phương pháp ít bị phản ứng phụ nhưng cũng có phương pháp làm phát sinh phản ứng phụ. 

Sử dụng một phương pháp tu thiền cũng giống như dùng thuốc, có thể có phản ứng phụ chứ chẳng phải không. Chính vì vậy mà người hướng dẫn tu tập thiền định phải nắm vững nhiều mặt của thiền định để tránh cho thiền sinh bị sai lầm hoặc tổn hại. 

Ngay cả người tu thiền định có kết quả cũng chưa hẳn là người đủ sức hướng dẫn cho người khác vì chưa biết hết mọi ngóc ngách hiểm trở của con đường thiền định phức tạp này do vị này chỉ đi con đường của mình, nên dễ chủ quan, cứ cho con đường của mình là tối ưu. 

Dựa trên kinh điển Nikaya nguyên thủy, trên Thiền Tông Trung Hoa Việt Nam, và trên kinh nghiệm nhỏ bé của mình, chúng tôi quyết định đi con đường thấp nhất, căn bản nhất để có lợi cho nhiều người nhất. Vì chúng tôi nghĩ số người căn cơ thấp như chúng tôi có lẽ chiếm đa số hơn số người căn cơ cao. 

Tuy nhiên, thiền định là giai đoạn cao của sự tu tập trong Phật giáo, hay nói hơi cường điệu, thiền định là đỉnh cao của sự tu tập. Nhưng hễ nói đến đỉnh cao tức là đã ngầm nói đến những giai đoạn thấp hơn, căn bản hơn. Và người khôn ngoan trên đời luôn luôn là người biết tạo dựng cái nền tảng thật vững chắc, thật rộng lớn để có thể đặt trên đó một công trình vĩ đại lâu dài về sau. Vì vậy, trước khi đi sâu vào phương pháp tu tập cụ thể, chúng ta hãy nhắc nhau về việc tạo dựng ba nền tảng của thiền định trước. 

1. Đạo đức sâu thẳm trong nội tâm

Nền tảng căn bản đầu tiên của thiền định là đạo đức sâu thẳm trong nội tâm. Trước khi tâm có thể vào định, chúng ta phải thanh lọc tâm mình đến mức thuần thiện, hoặc chúng ta phải vừa tu tập thiền định vừa trau dồi đạo đức của mình đến chỗ hoàn hảo. Từng phần tâm lý đạo đức như lòng từ bi, tâm khiêm hạ, nhẫn nhục, nhu hòa, vị tha, can đảm, tùy hỉ, biết ơn, vân vân phải được huân tập thấm nhuần một cách sâu sắc. Vì đạo đức là căn bản quan trọng của thiền định nên ai muốn tiến xa trên con đường thiền phải chịu khó tu sửa đạo đức thật kỹ càng.

Thước đo của thiền định là sự cư xử với mọi người chung quanh. Chúng ta phải tập sống hòa ái với mọi người, khoan dung với mọi người chứ không được xa lánh mọi người. Người tu sĩ phải có thời gian dài sống tốt đẹp với đại chúng trước khi muốn tìm nơi vắng vẻ để nỗ lực thiền định. Chính trong tương quan với mọi người mà chúng ta có điều kiện tu sửa đạo đức nơi chính mình. Những lúc đến giờ ngồi thiền thì ta ngồi, nhưng trong đời sống hằng ngày phải cố gắng sống tốt đẹp hòa ái với mọi người một cách chân thành sâu sắc. Những khi chứng kiến sự thành công của người, ta phải tập khởi tâm vui mừng hoan hỉ. Những khi chứng kiến sự thất bại, đau khổ của người, ta phải tập khởi tâm xót xa, chia sẻ. Những khi ta có được chút thành công, phải tập giữ tâm khiêm hạ, không cho mình là hơn người. Vô số những tế hạnh, những đạo đức nho nhỏ trong cuộc sống mà chúng ta phải xây dựng, phải củng cố, phải tạo thành cho tâm hồn mình trước khi và trong khi thực hành thiền định.

2. Công đức dồi dào

Nền tảng căn bản thứ hai của thiền định là công đức dồi dào. Có người hay cho rằng thiền là phương pháp dụng công để tâm vào định, không ngờ rằng mức độ định đạt được trong tâm lại liên quan rất nhiều đến công đức.

Công đức là tất cả những điều ta làm được cho tha nhân, cho chúng sinh mà khiến chúng sinh được bớt khổ, thêm vui, được tăng trưởng đạo tâm để tiến dần đến giải thoát.

Chữ công trong công đức hàm ý đây là sự cực nhọc, vất vả để thành tựu phước đức. Không thể có công đức nếu chúng ta không vất vả về công lao, không thiệt thòi về sở hữu. Không thể giúp đỡ tha nhân với sự thanh nhàn dễ giải. Chúng ta phải bận tâm, phải hao tốn, phải mất công nếu chúng ta muốn làm lợi ích cho chúng sinh. Cộng lại tất cả những niềm vui mà ta đã làm được cho chúng sinh, sau đó đem nhân lên vài lần thì đó sẽ là sự an vui trong tâm chúng ta, trong thiền định. Vì vậy, một hành giả tu tập thiền định sẽ phải luôn luôn là người đem an vui cho mọi người trong suốt cuộc sống.

Bên cạnh quá trình nỗ lực thực hành các phương pháp tu tập thiền định, hành giả phải siêng năng tạo nhiều phước lành lớn lao. Và chính phước lành lớn lao đó sẽ tạo thành kết quả tốt đẹp trong thiền định.

Một số người cho rằng muốn có một nội tâm thanh tịnh thì phải tránh duyên, phải quay lưng với cuộc đời. Thật ra, muốn có một nội tâm thanh tịnh, chúng ta phải đối xử tốt với cuộc đời, phải thể hiện được đạo lý trong cuộc đời, chứ không phải thờ ơ với cuộc đời.

Một công đức cực kỳ quan trọng khác đó là công đức lễ kính Phật. Theo luật nhân quả nghiệp báo có kính thầy mới được làm thầy. Vì vậy, chúng ta có tôn kính Phật, chúng ta mới có thể thành tựu một số đức tính của Phật, chúng ta mới tăng trưởng đạo hạnh, tiến sâu vào thiền định. Hành giả tu tập thiền định phải sắp xếp thời gian lễ Phật đều đặn mỗi ngày và lễ với tất cả lòng tôn kính tha thiết của mình. Công đức lễ kính Phật sẽ giữ gìn sự tu hành của chúng ta lâu dài từ kiếp này sang kiếp khác, giữ gìn nhân cách chúng ta ổn định từ đời này qua đời khác.

Ngoài ra, khi lễ Phật, chúng ta còn phát nhiều lời nguyện để định hướng cho sự tu hành của mình trong vô lượng kiếp về sau. Chúng ta có thể phát nguyện rằng: Xin cho con đủ lòng thương yêu tất cả chúng sinh trong ba cõi, sáu đường. Xin cho muôn loài biết thương yêu lẫn nhau. Xin cho con giữ được tâm khiêm hạ, biết tôn trọng mọi người, tự thấy mình như cát bụi, cỏ rác. Xin cho con giữ vững sự tinh tấn không ngừng nghỉ đến lúc thành tựu đạo quả viên mãn để con mãi mãi hóa độ chúng sinh về với Phật đạo.

3. Khí công

Nền tảng thứ ba của thiền định là khí công. Khí công là phương pháp tập luyện với mục đích tạo thành sức mạnh tiềm tàng bên trong cơ thể. Khí công đưa đến sự tích chứa sức mạnh lắng xuống vùng bụng dưới đan điền và như vậy khiến cho phần trên đầu trở nên thanh thản nhẹ nhàng và mạnh mẽ. Đây là điều độc đáo của y học Đông Phương. Một cơ thể ổn định phải có lực lắng xuống dưới và rỗng ở trên. Đó là nguyên tắc của khí công, là một sự hỗ trợ lớn cho công phu thiền định.

Tuy nhiên, hiện nay có rất nhiều phương pháp luyện tập khí công tùy theo dòng phái võ thuật. Có những phương pháp dễ gây nguy hiểm dù hiệu quả lớn và có những phương pháp ít nguy hiểm dù hiệu quả thấp. Chúng ta không cần phải đi quá sâu vào các phương pháp đó, chỉ sử dụng một phần nhỏ căn bản để tạo tiềm lực bên dưới nhằm hỗ trợ cho việc tu tập thiền định mà thôi. Ở đây chúng tôi giới thiệu 4 phương pháp căn bản ít phức tạp, xem như là 4 thế tập thể dục nhưng lại có tác dụng tạo tiềm lực cho công phu thiền định. 

Chuyển nhâm đốc 

Hành giả đứng thẳng, hai chân dang ra vừa ngang vai, bắt đầu thở song song với việc cúi gập người xuống, hai tay buông thẳng xuống đất theo cái đầu đang cúi xuống, xong bắt đầu hít vào song song với việc đứng thẳng lên và ngã người ra sau để cho lưng uốn cong ra sau như động tác uốn dẻo. Lúc ngã người ra sau là lúc đang giữ hơi nín thở đó. Lặp lại bằng cách thở ra cùng lúc với việc cúi gập người xuống. Tốc độ của động tác thì thong thả, phù hợp với hơi thở. 

Tích nội lực 

Hành giả chống hai tay ngang hông, dang hai chân ra vừa ngang vai, bắt đầu thở ra và thả người rơi nhẹ nhàng xuống trong khi giữ cho lưng vẫn thẳng, hai chân giữ tấn vững chắc. Tư thế giống như ngồi xỏm xuống nhưng thật ra mông vẫn chưa rơi xuống hết, vẫn kiềm lại một chút. Bắt đầu hít đầy hơi, phình bụng ra rồi từ từ đứng dậy, vừa giữ hơi ở bụng. Lúc đứng dậy phải giữ lưng vẫn thẳng đứng không bị chồm tới trước. Khi đứng thẳng rồi còn nhón chân thẳng thêm và thắt hậu môn lại, sau đó mới thở ra và gieo mình rơi xuống như cũ. Đây là thế quan trọng nhất để tích lũy nội lực. 

Hoạt khí 

Hành giả đứng dang hai chân vừa ngang vai, hơi rùn thấp một chút. Bắt đầu hít hơi vào song song với việc quay hai cánh tay từ dưới lên từ sau lưng. Khi hai tay lên đến đỉnh đầu thì bắt đầu thở ra và tay cũng đang quay xuống phía trước mặt. Khi hai tay xuống dưới thấp nhất thì lại hít vào và hai tay lại quay lên trên. Cần để ý là khi hai tay đang quay lên, đang hít vào, hai bàn tay rũ hết xuống. Còn khi hai tay chuyển quay xuống, đang thở ra thì hai bàn tay lại uốn lên. Thế này làm khí huyết lưu thông, kinh huyệt khai thông. 

Luyện thần 

Hành giả đứng trung bình tấn, hai chân dang vừa vai, thấp xuống, ai đứng càng thấp càng tốt, chỉ sợ đứng thấp quá thì không đứng lâu được. Hai bàn tay để ngữa ngang hông. Hành giả bắt đầu hít vào đầy bụng dưới rồi nín giữ hơi lại. Trong thời gian giữ hơi như thế, hai bàn tay bắt đầu quay đối xứng với nhau cùng mặt phẳng thẳng góc với hông. Hai bàn tay giữ cho mở thẳng và phẳng. Mặt phẳng để cho hai bàn tay quay thì vuông góc với trục lưng và cắt tại eo hông. Vòng tròn quay của mỗi bàn tay có đường kính khoảng 4 tấc. Bàn tay trái quay theo chiều kim đồng hồ. Bàn tay phải quay ngược chiều kim đồng hồ. Khi quay tưởng tượng như trên bàn tay có hai cục lữa nóng hổi. Quay khoảng 3 hoặc 4 vòng thì rút tay về để ở hông và thở ra. Hít vào, nín thở và bắt đầu quay lại. Chỉ khi nín thở mới được quay, còn khi đang hít vào hoặc thở ra thì tay để yên ở hông. Thế này làm tinh thần mạnh lên nhưng phải có các thế trước hỗ trợ. Nếu không có các thế trước thì thế thứ tư dễ bị căng thẳng.


- Sưu tầm