Phẩm An Lạc Hạnh Thứ Mười Bốn

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA - PHẨM AN LẠC HẠNH THỨ MƯỜI BỐN
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập Hán Dịch. Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh Việt Dịch

1. Lúc bấy giờ, Ngài Văn Thù Sư Lợi Đại Bồ Tát bạch Phật rằng: "Thế Tôn! Các vị Bồ Tát này rất là ít có, vì kính thuận Phật nên phát thệ nguyện lớn: Ở nơi đời ác sau, hộ trì đọc nói kinh Pháp Hoa này". Thế Tôn! Các vị đại Bồ Tát ở đời ác sau, thế nào mà có thể nói kinh này?". Phật bảo Ngài Văn Thù Sư Lợi: "Nếu vị Bồ Tát ở đời ác sau muốn nói kinh này, phải an trụ trong bốn pháp:

2. Một, an trụ nơi "hành xứ" và nơi "thân cận xứ" của Bồ Tát, thời có thể vì chúng sinh mà diễn nói kinh này. Văn Thù Sư Lợi! Thế nào gọi là chỗ "Hành xứ" của đại Bồ Tát? Nếu vị đại Bồ Tát an trụ trong nhẫn nhục hòa dịu khéo thuận mà không vụt chạc lòng cũng chẳng kinh sợ, lại ở nơi pháp không phân biệt mà quán tưởng như thực của các pháp(1) cũng chẳng vin theo, chẳng phân biệt, đó gọi là chỗ "hành xứ" của Bồ Tát. Thế nào gọi là chỗ "thân cận" của đại Bồ Tát? Vị đại Bồ Tát chẳng gần gũi quốc vương, vương tử, đại thần, quan trưởng, chẳng gần gũi các ngoại đạo phạm chí, ni kiền tử(2), v.v. . . và chẳng gần những kẻ viết sách thế tục ca ngâm; sách ngoại đạo cùng với phái "lộ già da đà" phái "nghịch lộ già da đà"(3), cũng chẳng gần gũi những kẻ chơi hung hiểm đâm nhau, đánh nhau, và bọn na la(4) v.v… bày các cuộc chơi biến hiện. Lại chẳng gần gũi bọn hàng thịt và kẻ nuôi heo, dê, gà, chó, săn bắn, chài lưới, hạng người sống với nghề ác, những người như thế hoặc có lúc lại đến thời.

Bồ Tát vì nói pháp không có lòng mong cầu. Lại chẳng gần gũi những Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, hạng người cầu quả Thanh Văn, hoặc ở trong phòng, hoặc chỗ kinh hành, hoặc ở trong giảng đường chẳng cùng ở chung, hoặc có lúc những người đó lại đến, Bồ Tát theo cơ nghi nói pháp không lòng mong cầu.

Văn Thù Sư Lợi! Lại vị đại Bồ Tát chẳng nên ở nơi thân người nữ cho là tướng có thể sinh tư tưởng dục nhiễm mà vì nói pháp, cũng chẳng ưa thấy. Nếu vào nhà người chẳng cùng với gái nhỏ, gái trinh, gái góa, v.v… chung nói chuyện, cũng lại chẳng gần năm giống người bất nam(5) để làm thân hậu. Chẳng riêng mình vào nhà người, nếu lúc có nhân duyên cần riêng mình vào thời chuyên một lòng niệm Phật. Nếu vì người nữ nói pháp thời chẳng hở răng cười, chẳng bày hông, ngực, nhẫn đến vì pháp mà còn chẳng thân hậu, huống lại là việc khác. Chẳng ưa nuôi đệ tử Sa di ít tuổi và các trẻ nhỏ, cũng chẳng ưa cùng chúng nó đồng một thầy. Thường ưa ngồi thiền ở chỗ vắng tu nhiếp tâm mình. Văn Thù Sư Lợi! Đó gọi là "chỗ thân cận" ban đầu.

3. Lại nữa, vị đại Bồ Tát quán sát "Nhất thiết, pháp không như thật tướng" chẳng điên đảo, chẳng động, chẳng thối, chẳng chuyển, như hư không, không có thật tính, tất cả lời nói phô dứt, chẳng sinh, chẳng xuất, chẳng khởi, không danh, không tướng, thực không chỗ có, không lường, không ngằn, không ngại, không chướng, chỉ do nhân duyên mà có, từ điên đảo mà sinh cho nên nói, thường ưa quán sát pháp tướng như thế đó gọi là "chỗ thân cận" thứ hai của vị Đại Bồ Tát. Lúc đó, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

4. Nếu có vị Bồ Tát. Ở trong đời ác sau. Lòng không hề sợ sệt. Muốn nói kinh pháp này. Nên trụ vào "hành xứ". Và trụ "thân cận xứ". Thường xa rời quốc vương. Và con của quốc vương. Quan đại thần, quan lớn. Kẻ chơi việc hung hiểm. Cùng bọn chiên đà la(6). Hàng ngoại đạo phạm chí. Cùng chẳng ưa gần gũi. Hạng người Tăng thượng mạn. Hàng học giả tham chấp. Kinh, luật, luận tiểu thừa. Những Tỳ kheo phá giới. Danh tự A la hán. Và những Tỳ kheo ni. Ưa thích chơi giỡn cười. Các vị Ưu bà di. Tham mê năm món dục. Cầu hiện tại diệt độ. Đều chớ có gần gũi. Nếu những hạng người đó. Dùng tâm tốt mà đến. Tại chỗ của Bồ Tát. Để vì nghe Phật đạo. Bồ Tát thời nên dùng. Lòng không chút sợ sệt. Chẳng có niệm mong cầu. Mà vì chúng nói pháp. Những gái góa, gái trinh. Và các kẻ bất nam. Đều chớ có gần gũi. Để cùng làm thân hậu. Cũng chớ nên gần gũi. Kẻ đồ tể cắt thái. Săn bắn và chài lưới. Vì lợi mà giết hại. Bán thịt để tự sống. Buôn bán sắc gái đẹp. Những người như thế đó. Đều chớ có gần gũi. Các cuộc chơi giỡn dữ. Hung hiểm đâm đánh nhau. Và những dâm nữ thảy. Trọn chớ có gần gũi. Chớ nên riêng chỗ khuất. Vì người nữ nói pháp. Nếu lúc vì nói pháp. Chẳng được chơi giỡn cười. Khi vào xóm khất thực. Phải dắt một Tỳ kheo. Nếu không có Tỳ kheo. Phải một lòng niệm Phật. Đây thời gọi tên là. "Hành xứ" "thân cận xứ". Dùng hai xứ trên đây. Có thể an lạc nói. Lại cũng chẳng vịn theo. Pháp thượng, trung và hạ. Hữu vi hay vô vi. Thực cùng pháp chẳng thực. Cũng chẳng có phân biệt. Là nam là nữ thảy. Lại chẳng được các pháp. Chẳng biết cũng chẳng thấy. Đây thời gọi tên là. "Hành xứ" của Bồ Tát. Tất cả các món pháp. Đều không, chẳng chỗ có. Không có chút thường trụ. Vẫn cũng không khởi diệt. Đây gọi là "thân cận". Chỗ người trí hằng nương. Chớ đảo điên phân biệt. Các pháp có hoặc không. Là thực, chẳng phải thực. Là sinh chẳng phải sinh. Ở an nơi vắng vẻ. Sửa trao nhiếp tâm mình. An trụ chẳng lay động. Như thể núi Tu Di. Quán sát tất cả pháp. Thảy đều không thực có. Dường như khoảng hư không. Không có chút bền chắc. Chẳng sanh cũng chẳng xuất. Chẳng động cũng chẳng thối. Thường trụ một tướng thể. Đó gọi là "cận xứ". Nếu có vị Tỳ kheo. Sau khi ta diệt độ. Vào được "hành xứ" đó. Thời lúc nói kinh này. Không có lòng e sợ. Vị Bồ Tát có lúc. Vào nơi nhà tịnh thất. Lòng nghĩ nhớ chân chính. Theo đúng nghĩa quán pháp. Từ trong thiền định dậy. Vì các bậc Quốc vương. Vương tử và quan, dân. Hàng Bà la môn thảy. Mà khai hóa diễn bày. Rộng nói kinh điển này. Tâm vị đó an ổn. Không có chút khiếp nhược. Văn Thù Sư Lợi này. Đó gọi là Bồ Tát. An trụ trong sơ pháp. Có thể ở đời sau. Diễn nói kinh Pháp Hoa.

5. Lại Văn Thù Sư Lợi! Sau khi Đức Như Lai diệt độ, ở trong đời mạt pháp muốn nói kinh này, phải trụ nơi hạnh an lạc, hoặc miệng tuyên nói hoặc lúc đọc kinh đều chẳng ưa nói lỗi của người và của kinh điển; chẳng khinh mạn các pháp sư khác, chẳng nói việc hay dở, tốt xấu của người khác. Ở nơi hàng Thanh văn cũng chẳng kêu tên nói lỗi quấy của người đó, cũng chẳng kêu tên khen ngợi điều tốt của người đó. Lại cũng chẳng sinh lòng oán hiềm, vì khéo tu lòng an lạc như thế, nên những người nghe pháp không trái ý. Có chỗ gạn hỏi, chẳng dùng pháp tiểu thừa đáp, chỉ dùng pháp đại thừa mà vì đó giải nói làm cho được bậc "Nhất thiết chủng trí". Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

6. Vị Bồ Tát thường ưa. An ổn nói kinh pháp. Ở nơi chỗ thanh tịnh. Mà sắp đặt sàng tòa. Dùng hương dầu xoa thân. Tắm gội các bụi dơ. Mặc y mới sạch sẽ. Trong ngoài đều sạch thơm. Ngồi an nơi pháp tòa. Theo chỗ hỏi vì nói. Nếu có vị Tỳ kheo. Cùng với Tỳ kheo ni. Các hàng Ưu bà tắc. Và hàng Ưu bà di. Quốc vương và vương tử. Các quan cùng sĩ dân. Dùng pháp nghĩa nhiệm mầu. Vui vẻ vì họ nói. Nếu có người gạn hỏi. Theo đúng nghĩa mà đáp. Nhân duyên hoặc thí dụ. Giải bày phân biệt nói. Dùng trí phương tiện này. Đều khiến kia phát tâm. Lần lần thêm đông nhiều. Vào ở trong Phật đạo. Trừ lòng lười biếng trễ. Cùng với tướng giải đãi. Xa rời các ưu não. Tâm từ lành nói pháp. Ngày đêm thường tuyên nói. Giáo pháp vô thượng đạo. Dùng các việc nhân duyên. Vô lượng món thí dụ. Mở bày dạy chúng sinh. Đều khiến chúng vui mừng. Y phục cùng đồ nằm. Đồ ăn uống thuốc thang. Mà ở nơi trong đó. Không có chỗ mong cầu. Chỉ chuyên một lòng nhớ. Nhân duyên nói kinh pháp. Nguyện ta thành Phật đạo. Khiến mọi người cũng vậy. Đó là lợi lành lớn. Là an vui cúng dường. Sau khi ta diệt độ. Nếu có vị Tỳ kheo. Có thể diễn nói được. Kinh Diệu Pháp Hoa này. Lòng không chút ghen hờn. Không các não chướng ngại. Cũng lại không ưu sầu. Và cùng mắng nhiếc thảy. Lại cũng không sợ sệt. Không dao gậy đánh đập. Cũng không xua đuổi ra. Vì an trụ nhẫn vậy. Người trí khéo tu tập. Tâm mình được dường ấy. Thời hay trụ an lạc. Như ta nói ở trên. Công đức của người đó. Trong nghìn muôn ức kiếp. Tính kể hay thí dụ. Nói chẳng thể hết được.

7. Lại Văn Thù Sư Lợi! Vị đại Bồ Tát ở đời rốt sau lúc pháp gần diệt mà thọ trì đọc tụng kinh điển này, chớ ôm lòng ghen ghét dua dối, cũng chớ khinh mắng người học Phật đạo, vạch tìm chỗ hay dở của kia. Nếu hàng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, hoặc cầu Thanh Văn, hoặc cầu Duyên giác, hoặc cầu Bồ Tát đạo, đều không được làm não đó, khiến cho kia sinh lòng nghi hối mà nói với người đó rằng: "Các người cách đạo rất xa, trọn không thể được bậc nhất thiết chủng trí. Vì sao? Vì các người là kẻ buông lung, biếng trễ đói với đạo"

Lại cũng chẳng nên hí luận các pháp có chỗ giành cãi. Phải ở nơi tất cả chúng sanh, khởi tưởng đại bi, đối với các Đức Như Lai sinh tưởng như cha lành, đối với các Bồ Tát, tưởng là bậc đại sư, với các Đại Bồ Tát ở mười phương phải thâm tâm lễ lạy, với tất cả chúng sanh đều bình đẳng nói pháp. Vì thuận theo pháp nên chẳng nói nhiều, chẳng nói ít, nhẫn đến người ưa pháp cũng chẳng vì nói nhiều.

Văn Thù Sư Lợi! Vị đại Bồ Tát ở đời rốt sau lúc pháp muốn diệt nếu thành tựu được hạnh an lạc thứ ba đây, thời lúc nói pháp này không ai có thể não loạn, đặng bạn đồng học tốt chung cùng đọc tụng kinh này, cũng đặng đại chúng thường đến nghe thọ. Nghe rồi hay nhớ, nhớ rồi hay tụng, tụng rồi hay nói, nói rồi hay chép, hoặc bảo người chép, cúng dường kinh quyển cung kính tôn trọng ngợi khen.

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

8. Nếu muốn nói kinh này. Phải bỏ lòng ghen hờn. Ngạo dua dối tà ngụy. Thường tu hạnh chất trực. Chẳng nên khinh miệt người. Cũng chẳng hí luận pháp. Chẳng khiến kia nghi hối. Rằng ngươi chẳng thành Phật. Phật tử đó nói pháp. Thường nhu hòa hay nhẫn. Từ bi với tất cả. Chúng sinh lòng biếng trễ. Bồ Tát lớn mười phương. Thương chúng nên hành đạo. Phải sinh lòng cung kính. Đó là Đại sư ta. Với các Phật Thế Tôn. Tưởng là cha vô thượng. Phá nơi lòng kiêu mạn. Nói pháp không chướng ngại. Pháp thứ ba như thế. Người trí phải giữ gìn. Một lòng an lạc hạnh. Vô lượng chúng cung kính.

9. Lại Văn Thù Sư Lợi! Các vị đại Bồ Tát ở đời rốt sau lúc pháp gần diệt có vị nào trì kinh Pháp Hoa này ở trong hàng người tại gia, xuất gia sinh lòng từ lớn, ở trong hạng người chẳng phải Bồ Tát sinh lòng bi lớn, phải nghĩ thế này: những người như thế thời là mất lợi lớn. Đức Như Lai phương tiện tùy nghi nói pháp chẳng nghe, chẳng biết, chẳng hay, chẳng hiểu, chẳng tin, chẳng hỏi. Người đó dầu chẳng hỏi, chẳng tin, chẳng hiểu kinh này, lúc ta được vô thượng chánh đẳng chánh giác, người đó tùy ở chỗ nào, ta dùng sức thần thông, sức trí tuệ dẫn dắt đó khiến được trụ trong pháp này.

Văn Thù Sư Lợi! Vị đại Bồ Tát đó ở sau lúc Như Lai diệt độ nếu thành tựu được pháp thứ tư này thời lúc nói pháp này không có lầm lỗi, thường được hàng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, quốc vương, vương tử, đại thần nhân dân bà la môn, cư sĩ thảy cúng dường cung kính tôn trọng ngợi khen, hàng chư thiên ở trên hư không vì nghe pháp cũng thường theo hầu. Nếu ở trong xóm làng thành ấp, rừng cây vắng vẻ, có người đến muốn gạn hỏi, hàng chư thiên ngày đêm thường vì pháp mà vệ hộ đó, có thể khiến người nghe đều được vui mừng. Vì sao? Vì kinh này được sức thần của tất cả các Đức Phật thuở quá khứ, vị lai, hiện tại giữ gìn vậy.

Văn Thù Sư Lợi! Kinh Pháp Hoa này ở trong vô lượng cõi nước, nhẫn đến danh tự còn chẳng nghe được, hà huống là được thấy thọ trì đọc tụng.

Văn Thù Sư Lợi! Thí như vua Chuyển Luân Thánh Vương(7) sức lực mạnh mẽ muốn dùng uy thế hàng phục các nước, mà các vua nhỏ chẳng thuận mệnh lệnh, bấy giờ Chuyển Luân Thánh Vương đem các đạo binh ra đánh dẹp, vua thấy binh chúng những người đánh giặc có công, liền rất vui mừng theo công mà thưởng ban. Hoặc ban cho ruộng, nhà, xóm, làng, thành, ấp, hoặc ban cho đồ y phục trang nghiêm nơi thân, hoặc cho các món trân bảo, vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, voi, ngựa, xe, cộ, tôi tớ, nhân dân, chỉ viên minh châu trong buối tóc chẳng đem cho đó. Vì sao? Vì riêng trên đảnh vua có một viên châu này, nếu đem cho đó thời các quyến thuộc của vua ắt rất kinh lạ.

Văn Thù Sư Lợi! Như Lai cũng như thế, dùng sức thiền định trí tuệ được cõi nước pháp, giáo hóa trong ba cõi mà Ma vương chẳng khứng thuận phục, các tướng hiền thánh của Như Lai cùng ma đánh nhau. Những người có công lòng cũng vui mừng, ở trong hàng chúng vì nói các kinh khiến tâm kia vui thích, ban cho các pháp thiền định, giải thoát, vô lậu căn lực. Và lại ban cho thành Niết Bàn, bảo rằng được diệt độ để dẫn dắt lòng chúng làm cho đều được vui mừng, mà chẳng vì đó nói kinh Pháp Hoa này.

Văn Thù Sư Lợi! Như vua Chuyển Luân thấy các binh chúng những người có công lớn, đem viên minh châu khó tin từ lâu ở trong buối tóc chẳng vọng cho người, mà nay cho đó. Đức Như Lai cũng lại như thế, làm vị đại Pháp vương trong ba cõi, đem pháp mầu giáo hóa tất cả chúng sanh. Thấy quân hiền thánh cùng ma ngũ ấm, ma phiền não(8), ma chết, đánh nhau có công lớn, diệt ba độc, khỏi ba cõi, phá lưới ma. Lúc ấy Như Lai cũng rất vui mừng, kinh Pháp Hoa này có thể khiến chúng sanh đến bậc "Nhứt thiết trí" là pháp mà tất cả thế gian nhiều oán ghét, khó tin, trước chưa từng nói mà nay nói đó.

Văn Thù Sư Lợi! Kinh Pháp Hoa này là lời nói bậc nhất của Như Lai, ở trong các lời nói thời là rất sâu, rốt sau mới ban cho, như vua sức mạnh kia lâu gìn viên minh-châu mà nay mới cho đó.

Văn Thù Sư Lợi! Kinh Pháp Hoa này là tạng bí mật của các Đức Phật Như Lai, ở trong các kinh thời là bậc trên hết, lâu ngày giữ gìn chẳng vọng tuyên nói, mới ở ngày nay cùng với các ông mà bày nói đó. Lúc đó, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

10. Thường tu hành nhẫn nhục. Thương xót tất cả chúng. Mới có thể diễn nói. Kinh của Phật khen ngợi. Đời mạt thế về sau. Người thọ trì kinh này. Với tại gia, xuất gia. Và chẳng phải Bồ Tát. Nên sinh lòng từ bi. Những người đó chẳng nghe. Chẳng tin Kinh pháp này. Thời là mất lợi lớn. Khi ta chứng Phật đạo. Dùng các sức phương tiện. Vì nói kinh pháp này. Làm cho trụ trong đó. Thí như vua Chuyển Luân. Thánh vương có sức mạnh. Binh tướng đánh có công. Thưởng ban những đồ vật. Voi, ngựa và xe cộ. Đồ trang nghiêm nơi thân. Và những ruộng cùng nhà. Xóm làng thành ấp thảy. Hoặc ban cho y phục. Các món trân báu lạ. Tôi tớ cùng của cải. Đều vui mừng ban cho. Nếu có người mạnh mẽ. Hay làm được việc khó. Vua mới mở buối tóc. Lấy minh châu cho đó. Đức Như Lai cũng thế. Là vua trong các pháp. Nhẫn nhục sức rất lớn. Tạng báu trí tuệ sáng. Dùng lòng từ bi lớn. Đúng như pháp độ đời. Thấy tất cả mọi người. Chịu các điều khổ não. Muốn cầu được giải thoát. Cùng các ma đánh nhau. Phật vì chúng sanh đó. Nói các món kinh pháp. Dùng sức phương tiện lớn. Nói các kinh điển đó. Đã biết loài chúng sanh. Được sức mạnh kia rồi. Rốt sau mới vì chúng. Nói kinh Pháp Hoa này. Như vua thánh mở tóc. Lấy minh châu cho đó. Kinh này là bậc tôn. Trên hết trong các kinh. Ta thường giữ gìn luôn. Chẳng vọng vì mở bày. Nay chính đã phải lúc. Vì các ông mà nói. Sau khi ta diệt độ. Người mong cầu Phật đạo. Muốn được trụ an ổn. Diễn nói kinh pháp này. Phải nên thường gần gũi. Bốn pháp trên như thế. Người đọc tụng kinh này. Thường không bị ưu não. Lại không có bệnh đau. Nhan sắc được trắng sạch. Chẳng sinh nhà bần cùng. Dòng ti tiện xấu xa. Chúng sanh thường ưa thấy. Như ham mộ hiền thánh. Các đồng tử cõi trời. Dùng làm kẻ sai khiến. Dao gậy chẳng đến được. Độc dữ chẳng hại được. Nếu người muốn mắng nhiếc. Miệng thời liền ngậm bít. Dạo đi không sợ sệt. Dường như sư tử vương. Trí tuệ rất sáng suốt. Như mặt trời chói sáng. Nếu ở trong chiêm bao. Chỉ thấy những việc tốt. Thấy các Đức Như Lai. Ngồi trên tòa sư tử. Các hàng chúng tỳ kheo. Vây quanh nghe nói pháp. Lại thấy các long thần. Cùng A tu la thảy. Số như cát sông Hằng. Đều cung kính chắp tay. Tự ngó thấy thân mình. Mà vì chúng nói pháp. Lại thấy các Đức Phật. Thân tướng thuần sắc vàng. Phóng vô lượng hào quang. Soi khắp đến tất cả. Dùng giọng tiếng phạm âm. Mà diễn nói các pháp. Phật vì hàng tứ chúng. Nói kinh pháp vô thượng. Thấy thân mình ở trong. Chắp tay khen ngợi Phật. Nghe pháp lòng vui mừng. Mà vì cúng dường Phật. Được pháp Đà la ni. Chứng bậc bất thối trí. Phật biết tâm người đó. Đã sâu vào Phật đạo. Liền vì thọ ký cho. Sẽ thành tối chánh giác. Thiện nam tử người này. Sẽ ở đời vị lai. Chứng được vô lượng trí. Nên đạo lớn của Phật. Cõi nước rất nghiêm tịnh. Rộng lớn không đâu bằng. Cũng có hàng tứ chúng. Chắp tay nghe nói pháp. Lại thấy thân của mình. Ở trong rừng núi vắng. Tu tập các pháp lành. Chứng thực tướng các pháp. Sâu vào trong thiền định. Thấy các Phật mười phương. Các Phật thân sắc vàng. Trăm phước tướng trang nghiêm. Nghe pháp vì người nói. Thường có mộng tốt đó. Lại mộng làm quốc vương. Bỏ cung điện quyến thuộc. Và ngũ dục thượng diệu. Đi đến nơi đạo tràng. Ở dưới gốc Bồ Đề. Mà ngồi tòa sư tử. Cầu đạo quá bảy ngày. Được trí của các Phật. Thành đạo vô thượng rồi. Dậy mà chuyển pháp luân. Vì bốnchúng nói pháp. Trải nghìn muôn ức kiếp. Nói pháp mầu vô lậu. Độ vô lượng chúng sanh. Sau sẽ vào Niết bàn. Như khói hết đèn tắt. Nếu trong đời ác sau. Nói pháp bậc nhất này. Người đó được lợi lớn. Các công đức như trên.


THÍCH NGHĨA
(1) Thật tướng các pháp: Rời tất cả tướng: có, không, v.v… gọi là "thật tướng" (tướng chơn thật), vì tất cả tướng: có, không, v.v… đều là hư dối cả.
(2) Ni kiền tử: Lõa hình ngoại đạo (đạo ở trần truồng) cũng gọi là "Vô tàm ngoại đạo" (đạo không biết hổ thẹn)
(3) Lộ già da đà: Phái thuận thế ngoại đạo (đạo thuận theo thế tục). Nghịch lộ già da đà: phái nghịch thuận thế ngoại đạo (đạo chống trái với thuận thế ngoại đạo)
(4) Na la: kẻ múa hát
(5) Bất nam: Chẳng phải thiệt đàn ông, như người lại cái, kẻ không nam căn v.v… (có chỗ gọi là huỳnh môn)
(6) Chiên đà la: Kẻ đồ tể, quân đao phủ
(7) Chuyển Luân Thánh Vương: 1. Thiết Luân Vương cai trị 1 châu thiên hạ, 2. Đồng Luân Vương cai trị 2 châu thiên hạ, 3. Ngân Luân Vương cai trị 3 châu thiên hạ, 4. Kim Luân Vương cai trị 4 châu thiên hạ. Vì phước nghiệp đời trước nên khi lên ngôi vua, có xe báu tự nhiên, hoặc bằng sắt, đồng, bạc, vàng hiện ra. Vua ngồi xe đó mà đi tuần, hay dẹp giặc trong cõi mình cai trị.
(8) Phiền não ma: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức năm ấm hay làm khổ hại nên gọi là ma. Các lòng tham, sân, dục, nghi v.v… thường làm rối rắm, phiền muộn rất khổ hại nên gọi là ma.