Phẩm Phương Tiện Thứ Hai

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA - PHẨM PHƯƠNG TIỆN(31) THỨ HAI
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập Hán Dịch. Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh Việt Dịch


1. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn từ chánh định an lành mà dậy, bảo Ngài Xá Lợi Phất: "Trí huệ của các Đức Phật rất sâu vô lượng, môn trí huệ đó khó hiểu khó vào, tất cả hàng Thanh văn cùng Tích chi Phật đều không biết được. Vì sao?


Phật đã từng gần gũi trăm nghìn muôn ức, vô số các Đức Phật, trọn tu vô lượng đạo pháp của các Đức Phật, dõng mãnh tinh tấn, danh tốt đồn khắp, trọn nên pháp rất sâu chưa từng có, theo thời nghi mà nói pháp ý thú khó hiểu.


Xá Lợi Phất! Từ ta thành Phật đến nay, các món nhân duyên, các món thí dụ, rộng nói ngôn giáo, dùng vô số phương tiện dìu dắt chúng sanh, làm cho xa lìa lòng chấp. Vì sao? Đức Như Lai đã đầy đủ phương tiện, tri kiến và ba la mật.


Xá Lợi Phất! Tri kiến của Như Lai rộng lớn sâu xa, đức vô lượng vô ngại lực, vô sở úy, thiền định, giải thoát tam muội, đều sâu vào không ngằn mé, trọn nên tất cả pháp chưa từng có.


Xá Lợi Phất! Như Lai hay các món phân biệt, khéo nói các pháp lời lẽ êm dịu vui đẹp lòng chúng.


Xá Lợi Phất! Tóm yếu mà nói đó, vô lượng vô biên pháp vị tằng hữu, Đức Phật thảy đều trọn nên.


2. Thôi Xá Lợi Phất! Chẳng cần nói nữa. Vì sao? Vì pháp khó hiểu ít có thứ nhất mà Phật trọn nên đó, chỉ có Phật cùng Phật mới có thể thấu tột tướng chân thật của các pháp, nghĩa là các pháp: tướng như vậy, tánh như vậy, thể như vậy, lực như vậy, tác như vậy, nhân như vậy, duyên như vậy, quả như vậy, báo như vậy, trước sau rốt ráo như vậy.


3. Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói bài kệ rằng:


Đấng Thế Hùng khó lường. Các trời cùng người đời. Tất cả loài chúng sanh. Không ai hiểu được. Phật. Trí lực, vô sở úy. Giải thoát các tam muội. Các pháp khác của Phật. Không ai so lường được. Vốn từ vô số Phật. Đầy đủ tu các đạo. Pháp nhiệm mầu rất sâu. Khó thấy khó rõ được. Trong vô lượng ức kiếp. Tu các đạo đó rồi. Đạo tràng được chứng quả. Ta đều đã thấy biết. Quả báo lớn như vậy. Các món tính tướng nghĩa. Ta cùng mười phương Phật. Mới biết được việc đó.


4. Pháp đó không chỉ được. Vắng bặt tướng nói năng. Các loài chúng sinh khác. Không có ai hiểu được. Trừ các chúng Bồ Tát. Người sức tin bền chặt. Các hàng đệ tử Phật. Từng cúng dường các Phật. Tất cả lậu đã hết. Trụ thân rốt sau này. Các hạng người vậy thảy. Sức họ không kham được. Giả sử đầy thế gian. Đều như Xá Lợi Phất. Cùng suy chung so lường. Chẳng lường được Phật trí. Chính sử khắp mười phương. Đều như Xá Lợi Phất. Và các đệ tử khác. Cũng đầy mười phương cõi. Cùng suy chung so lường. Cũng lại chẳng biết được. Bậc Duyên giác trí lành. Vô lậu thân rốt sau. Cũng đầy mười phương cõi. Số đông như rừng tre. Hạng này chung một lòng. Trong vô lượng ức kiếp. Muốn xét Phật thật trí. Chẳng biết được chút phần. Bồ Tát mới phát tâm. Cúng dường vô số Phật. Rõ thấu các nghĩa thú. Lại hay khéo nói pháp. Như lúa, mè, tre, lau. Đông đầy mười phương cõi. Một lòng dùng trí mầu. Trải số kiếp hằng sa. Thảy đều chung suy lường. Chẳng biết được trí Phật. Hàng bất thối Bồ Tát. Số đông như hằng sa. Một lòng chung suy cầu. Cũng lại chẳng hiểu được.


5. Lại bảo Xá Lợi Phất. Pháp nhiệm mầu rất sâu. Vô lậu khó nghĩ bàn. Nay ta đã được đủ. Chỉ ta biết tướng đó. Mười phương Phật cũng vậy. Xá Lợi Phất phải biết. Lời Phật nói không khác. Với Pháp của Phật nói. Nên sinh sức tin chắc. Pháp của Phật lâu sau. Cần phải nói chân thật. Bảo các chúng Thanh văn. Cùng người cầu Duyên giác. Ta khiến cho thoát khổ. Đến chứng được Niết bàn. Phật dùng sức phương tiện. Dạy cho ba thừa giáo. Chúng sanh nơi nơi chấp. Dắt đó khiến ra khỏi.


6. Khi đó trong đại chúng có hàng Thanh văn lậu tận A la hán, Ngài A Nhã Kiều Trần Như v.v... một nghìn hai trăm người và các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, cận sự nam cùng cận sự nữ, hạng người phát tâm Thanh văn, Duyên giác đều nghĩ rằng: "Hôm nay Đức Phật cớ chi lại ân cần ngợi khen phương tiện mà nói thế này: "Pháp của Phật chứng rất sâu khó hiểu, tất cả hàng Thanh văn cùng Duyên giác không thể đến được."


7. Đức Phật nói một nghĩa giải thoát, chúng ta cũng chứng được pháp đó đến nơi Niết bàn, mà nay chẳng rõ nghĩa đó về đâu? Lúc ấy, Ngài Xá Lợi Phất biết lòng nghi của bốn chúng, chính mình cũng chưa rõ, liền bạch Phật rằng: Thưa Thế Tôn! Nhân gì duyên gì mà Phật ân cần khen ngợi pháp phương tiện thứ nhất nhiệm mầu rất sâu khó hiểu của các Đức Phật? Con từ trước đến nay chưa từng nghe Phật nói điều đó, hôm nay bốn chúng thảy đều có lòng nghi. Cúi xin Đức Thế Tôn bày nói việc đó. Cớ gì mà Đức Thế Tôn ân cần khen ngợi pháp nhiệm mầu rất sâu khó hiểu? Khi đó Ngài Xá Lợi Phất muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:


8. Đấng Huệ Nhật Đại thánh. Lâu mới nói pháp này. Tự nói pháp mình chứng. Lực, vô úy, tam muội. Thiền định, giải thoát thảy. Đều chẳng nghĩ bàn được. Pháp chứng nơi đạo tràng. Không ai hỏi đến được. Ý con khó lường được. Cũng không ai hay hỏi. Không hỏi mà tự nói. Khen ngợi đạo mình làm. Các Đức Phật chứng được. Trí huệ rất nhiệm mầu. Hàng vô lậu La hán. Cùng người cầu Niết bàn. Nay đều sa lưới nghi. Phật cớ chi nói thế? Hạng người cầu Duyên giác. Tỳ kheo, Tỳ kheo ni. Các trời, rồng, quỉ, thần. Và Càn thát bà thảy. Ngó nhau mang lòng nghi. Nhìn trông đấng Túc Tôn. Việc đó là thế nào. Xin Phật vị dạy cho? Trong các chúng Thanh văn. Phật nói con hạng nhất. Nay con nơi trí mình. Nghi lầm không rõ được. Vì là pháp rốt ráo. Vì là đạo Phật làm. Con từ miệng Phật sanh. Chắp tay nhìn trông chờ. Xin ban tiếng nhiệm mầu. Liền vì nói như thực. Các trời, rồng, thần thảy. Số đông như hằng sa. Bồ Tát cầu thành Phật. Số nhiều có tám muôn. Lại những muôn ức nước. Vua Chuyển Luân vương đến. Đều lòng kính chắp tay. Muốn nghe đạo đầy đủ.


9. Khi đó Đức Phật bảo Ngài Xá Lợi Phất: Thôi thôi! Chẳng nên nói nữa, nếu nói việc đó tất cả trong đời các trời và người đều sẽ kinh sợ nghi ngờ."


10. Ngài Xá Lợi Phất lại bạch Phật rằng: "Thưa Thế Tôn! Cúi xin nói đó, cúi xin nói đó. Vì sao? Trong hội đây có vô số trăm nghìn muôn ức a tăng kỳ chúng sinh đã từng gặp các Đức Phật, các căn mạnh lẹ, trí huệ sáng suốt, được nghe Phật dạy chắc có thể kính tin".


Lúc ấy, Ngài Xá Lợi Phất muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng:


Đấng Pháp Vương vô thượng. Xin nói chuyện đừng lo. Vô lượng chúng hội đây. Có người hay kính tin.


11. Đức Phật lại ngăn Xá Lợi Phất : "Nếu nói việc đó thì tất cả trong đời, trời, người, A tu la đều sẽ nghi sợ, Tỳ kheo tăng thượng mạn sẽ phải sa vào hầm lớn."


Khi đó Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng:


Thôi thôi! Chẳng nên nói. Pháp ta diệu khó nghĩ. Những kẻ tăng thượng mạn. Nghe ắt không kính tin.


12. Lúc ấy Ngài Xá Lợi Phất bạch Phật rằng: "Thưa Thế Tôn! Cúi xin Phật nói, cúi xin Phật nói. Nay trong hội này hạng người sánh bằng con có trăm nghìn muôn ức. Đời đời đã từng theo Phật học hỏi, những người như thế chắc hay kính tin lâu dài an ổn nhiều điều lợi ích.


Khi đó Ngài Xá Lợi Phất, muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:


Đấng vô thượng Lưỡng túc. Xin nói pháp đệ nhất. Con là trưởng tử Phật. Xin thương phân biệt nói. Vô lượng chúng hội đây. Hay kính tin pháp này. Đời đời Phật đã từng. Giáo hóa chúng như thế. Đều một lòng chắp tay. Muốn nghe lãnh lời Phật. Chúng con nghìn hai trăm. Cùng hạng cầu Phật nọ. Nguyện Phật vì chúng này. Cúi xin phân biệt nói. Chúng đây nghe pháp ấy. Thời sanh lòng vui mừng.


13. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Ngài Xá Lợi Phất: "Ông đã ân cần ba phen thưa thỉnh đâu được chẳng nói. Ông nay lóng nghe khéo suy nghĩ nhớ đó, ta sẽ vì ông phân biệt giải nói."


14. Khi Đức Phật nói lời đó, trong hội có các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, cận sự nam, cận sự nữ, cả thẩy năm nghìn người, liền từ chỗ ngồi đứng dậy lễ Phật mà lui về. Vì sao? Vì bọn người này gốc tội sâu nặng cùng tăng thượng mạng, chưa được mà nói đã được, chưa chứng mà đã cho chứng, có lỗi dường ấy, cho nên không ở lại. Đức Thế Tôn yên lặng không ngăn cản.


15. Bấy giờ, Đức Phật bảo Ngài Xá Lợi Phất: "Trong chúng ta đây không còn cành lá, rặt có hạt chắc. Xá Lợi Phất! Những gã tăng thượng mạn như vậy lui về cũng là tốt. Ông nay nên khéo nghe, ta sẽ vì ông mà nói."


16. Ngài Xá Lợi Phất bạch rằng: "Vâng thưa Thế Tôn con nguyện ưa muốn nghe". Đức Phật bảo Ngài Xá Lợi Phất: "Pháp mầu như thế, các Đức Phật Như Lai đến khi đúng thời mới nói, đó như hoa linh thoại đến thời tiết mới hiện một lần. Xá Lợi Phất! Các ông nên tin lời của Phật nói không hề hư vọng.


17. Xá Lợi Phất! Các Đức Phật theo thời nghi nói pháp y thú khó hiểu. Vì sao? Ta dùng vô số phương tiện các món nhân duyên, lời lẽ thí dụ diễn nói các pháp.


Pháp đó không phải là suy lường phân biệt mà có thể hiểu, chỉ có các Đức Phật mới biết được đó. Vì sao? Các Đức Phật Thế Tôn, chỉ do một sự nhân duyên lớn mà hiện ra nơi đời.


Xá Lợi Phất! Sao nói rằng các Đức Phật Thế Tôn chỉ do một sự nhân duyên lớn mà hiện ra đời? Các Đức Phật Thế Tôn vì muốn cho chúng sanh khai tri kiến Phật để được thanh tịnh mà hiện ra nơi đời; vì muốn chỉ tri kiến Phật cho chúng sanh mà hiện ra nơi đời; vì muốn cho chúng sanh tỏ ngộ tri kiến Phật mà hiện ra nơi đời; vì muốn cho chúng sanh chứng vào đạo tri kiến Phật mà hiện ra nơi đời.


Xá Lợi Phất! Đó là các Đức Phật do vì một sự nhân duyên lớn mà hiện ra nơi đời".


18. Đức Phật bảo Xá Lợi Phất: "Các Đức Phật Như Lai chỉ giáo hóa Bồ Tát, những điều làm ra thường vì một việc: chỉ đem tri kiến Phật chỉ cho chúng sanh tỏ ngộ thôi"


Xá Lợi Phất! Đức Như Lai chỉ dùng một Phật thừa mà vì chúng sanh nói pháp không có các thừa hoặc hai hoặc ba khác.


19. Xá Lợi Phất! Pháp của tất cả các Đức Phật ở mười phương cũng như thế.


Xá Lợi Phất! Thuở quá khứ các Đức Phật dùng vô lượng vô số phương tiện các món nhân duyên lời lẽ thí dụ mà vì chúng sanh diễn nói các pháp. Vì pháp đó đều là một Phật thừa, nên các chúng sanh đó theo chư Phật nghe pháp rốt ráo đều được chứng "nhứt thiết chủng trí."


Xá Lợi Phất! Thuở vị lai, các Đức Phật sẽ ra đời cũng dùng vô lượng vô số phương tiện các món nhân duyên lời lẽ thí dụ mà vì chúng sanh diễn nói các pháp, vì pháp ấy đều là một Phật thừa nên các chúng sanh đó theo Phật nghe pháp rốt ráo đều được chứng "nhứt thiết chủng trí".


Xá Lợi Phất! Hiện tại nay, trong vô lượng trăm nghìn muôn ức cõi Phật ở mười phương, các Đức Phật Thế Tôn nhiều điều lợi ích an vui cho chúng sanh. Các Đức Phật đó cũng dùng vô lượng vô số phương tiện các món nhân duyên lời lẽ thí dụ mà vì chúng sanh diễn nói các pháp, vì pháp đó đều là một Phật thừa, các chúng sanh ấy theo Phật nghe pháp rốt ráo đều được chứng "nhứt thiết chủng trí".


Xá Lợi Phất! Các Đức Phật đó chỉ giáo hóa Bồ Tát, vì muốn đem tri kiến Phật mà chỉ cho chúng sanh, vì muốn đem tri kiến Phật cho chúng sanh tỏ ngộ, vì muốn làm cho chúng sanh chứng vào tri kiến Phật vậy.


Xá Lợi Phất! Nay ta cũng lại như thế, rõ biết các chúng sanh có những điều ưa muốn, thân tâm mê chấp, ta tùy theo bản tánh kia dùng các món nhân duyên lời lẽ thí dụ cùng sức phương tiện mà vì đó nói pháp.


Xá Lợi Phất! Như thế đều vì để chứng được một Phật thừa "nhứt thiết chủng trí."


20. Xá Lợi Phất! Trong cõi nước ở mười phương còn không có hai thừa hà huống có ba!


Xá Lợi Phất! Các Đức Phật hiện ra trong đời ác năm trược, nghĩa là: kiếp trược, phiền não trược, chúng sinh trược, kiến trược, mệnh trược. Như thế, Xá Lợi Phất, lúc kiếp loạn trược chúng sinh nhơ nặng, bỏn sẻn, tham lam, ghét ganh, trọn nên các căn chẳng lành, cho nên các Đức Phật dùng sức phương tiện, nơi một Phật thừa, phân biệt nói thành ba.


21. Xá Lợi Phất! Nếu đệ tử ta tự cho mình là A la hán cùng Duyên giác mà không nghe, không biết việc của các Đức Phật Như Lai chỉ giáo hóa Bồ Tát, người này chẳng phải là đệ tử Phật, chẳng phải A la hán, chẳng phải Duyên giác.


Lại nữa, Xá Lợi Phất! Các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni đó tự cho mình đã được A la hán, là thân rốt sau rốt ráo Niết bàn, bèn chẳng lại chí quyết cầu đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác. Nên biết bọn đó là kẻ tăng thượng mạn. Vì sao? Nếu có Tỳ kheo thực chứng quả A la hán mà không tin pháp này, quyết không có lẽ ấy, trừ sau khi Phật diệt độ hiện tiền không Phật. Vì sao? Sau khi Phật diệt độ, những kinh như thế, người hay thọ trì đọc tụng hiểu nghĩa rất khó có được, nếu gặp Đức Phật khác, ở trong pháp này bèn được hiểu rõ.


Xá Lợi Phất! Các ông nên một lòng tin hiểu thọ trì lời Phật dạy. Lời các Đức Phật Như Lai nói không hư vọng, không có thừa nào khác, chỉ có một Phật thừa thôi.


Khi ấy Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng:


22. Tỳ kheo, Tỳ kheo ni. Mang lòng tăng thượng mạng. Cận sự nam ngã mạn. Cận sự nữ chẳng tin. Hàng bốn chúng như thế. Số kia có năm nghìn. Chẳng tự thấy lỗi mình. Nơi giới có thiếu sót. Tiếc giữ tội quấy mình. Trí nhỏ đó đã ra. Bọn cám tấm trong chúng. Oai đức Phật phải đi. Gã đó kém phước đức. Chẳng kham lãnh pháp này. Chúng nay không cành lá. Chỉ có những hột chắc.


23. Xá Lợi Phất khéo nghe! Pháp của các Phật được. Vô lượng sức phương tiện. Mà vì chúng sanh nói. Tâm của chúng sanh nghĩ. Các món đạo ra làm. Bao nhiêu những tánh dục. Nghiệp lành dữ đời trước. Phật biết hết thế rồi. Dùng các duyên thí dụ. Lời lẽ sức phương tiện. Khiến tất cả vui mừng. Hoặc là nói Thế kinh. Cô khởi cùng Bổn sự. Bổn sanh, Vị tằng hữu. Cũng nói những nhân duyên. Thí dụ và Trùng tụng. Luận nghị cộng chín kinh. Căn độn ưa pháp nhỏ. Tham chấp nơi sanh tử. Nơi vô lượng Đức Phật. Chẳng tu đạo sâu mầu. Bị các khổ não loạn. Vì đó nói Niết bàn. Ta bày phương tiện đó. Khiến đều vào huệ Phật. Chưa từng nói các ông. Sẽ được thành Phật đạo. Sở dĩ chưa từng nói. Vì giờ nói chưa đến. Nay chính là đến giờ. Quyết định nói Đại thừa.


24. Chín bộ pháp của ta. Thuận theo chúng sanh nói. Vào Đại thừa làm gốc. Nên mới nói kinh này. Có Phật tử tâm tịnh. Êm dịu cũng căn lợi. Nơi vô lượng các Phật. Mà tu đạo sâu mầu. Vì hàng Phật tử này. Nói kinh Đại thừa đây. Ta ghi cho người đó. Đời sau thành Phật đạo. Bởi thâm tâm niệm Phật. Tu trì tịnh giới vậy. Hạng này nghe thành Phật. Rất mừng đầy khắp mình. Phật biết tâm của kia. Nên vì nói Đại thừa. Thanh văn hoặc Bồ Tát. Nghe ta nói pháp ra. Nhẫn đến một bài kệ. Đều thành Phật không nghi.


25. Trong cõi Phật mười phương. Chỉ có một thừa pháp. Không hai cũng không ba. Trừ Phật phương tiện nói. Chỉ dùng danh tự giả. Dẫn dắt các chúng sanh. Vì nói trí huệ Phật. Các Phật ra nơi đời. Chỉ một việc này thực. Hai thứ chẳng phải chơn. Trọn chẳng đem tiểu thừa. Mà tế độ chúng sanh. Phật tự trụ Đại thừa. Như pháp của mình được. Định, huệ, lực trang nghiêm. Dùng đây độ chúng sanh. Tự chứng đạo vô thượng. Pháp bình đẳng Đại thừa. Nếu dùng tiểu thừa độ. Nhẫn đến nơi một người. Thời ta đọa sân tham. Việc ấy tất không được. Nếu người tin về Phật. Như Lai chẳng dối gạt. Cũng không lòng tham ghen. Dứt ác trong các pháp. Nên Phật ở mười phương. Mà riêng không chỗ sợ. Ta dùng tướng trang nghiêm. Ánh sáng soi trong đời. Đấng vô lượng chúng trọng. Vì nói thực tướng ấn.


26. Xá Lợi Phất! nên biết. Ta vốn lập thệ nguyện. Muốn cho tất cả chúng. Bằng như ta không khác. Như ta xưa đã nguyện. Nay đã đầy đủ rồi. Độ tất cả chúng sanh. Đều khiến vào Phật đạo. Nếu ta gặp chúng sanh. Dùng Phật đạo dạy cả. Kẻ vô trí rối sai. Mê lầm không nhận lời. Ta rõ chúng sanh đó. Chưa từng tu cội lành. Chấp chặt nơi ngũ dục. Vì si ái sinh khổ. Bởi nhân duyên các dục. Sanh vào ba đường dữ. Xoay lăn trong sáu nẻo. Chịu đủ những khổ độc. Thân mọn thọ bào thai. Đời đời tăng trưởng luôn. Người đức mỏng ít phước. Các sự khổ bức ngặt. Vào rừng rậm tà kiến. Hoặc chấp có, chấp không. Nương gá các chấp này. Đầy đủ sáu mươi hai. Chấp chặt pháp hư vọng. Bền nhận không bỏ được. Ngã mạn tự khoe cao. Dua nịnh lòng không thực. Trong nghìn muôn ức kiếp. Chẳng nghe danh tự Phật. Cũng chẳng nghe chánh pháp. Người như thế khó độ.


27. Cho nên Xá Lợi Phất! Ta vì bày phương tiện. Nói các đạo dứt khổ. Chỉ cho đó Niết bàn. Ta dầu nói Niết bàn. Cũng chẳng phải thật diệt. Các pháp từ bổn lai. Tướng thường tự vắng lặng. Phật tử hành đạo rồi. Đời sau được thành Phật. Ta có sức phương tiện. Mở bày khắp ba thừa. Tất cả các Thế Tôn. Đều nói đạo nhất thừa. Nay trong đại chúng này. Đều nên trừ nghi lầm. Lời Phật nói không khác. Chỉ một, không hai thừa.


28. Vô số kiếp đã qua. Vô lượng Phật diệt độ. Trăm nghìn muôn ức Phật. Số nhiều không lường được. Các Thế Tôn như thế. Các món duyên thí dụ. Vô số ức phương tiện. Diễn nói các pháp tướng. Các Đức Thế Tôn đó. Đều nói pháp nhất thừa. Độ vô lượng chúng sanh. Khiến vào nơi Phật đạo. Lại các đại Thánh chúa. Biết tất cả thế gian. Trời người loài quần sanh. Thâm tâm chỗ ưa muốn. Bèn dùng phương tiện khác. Giúp bày nghĩa đệ nhất.


29. Nếu có loài chúng sanh. Gặp các Phật quá khứ. Hoặc nghe pháp bố thí. Hoặc trì giới nhẫn nhục. Tinh tấn, thiền, trí thảy. Các món tu phước huệ. Những người như thế đó. Đều đã thành Phật đạo. Sau các Phật diệt độ. Nếu người lòng lành dịu. Các chúng sanh như thế. Đều đã thành Phật đạo.


30. Các Phật diệt độ rồi. Người cúng dường xá lợi. Dựng muôn ức thứ tháp. Vàng, bạc và pha lê. Xa cừ cùng mã não. Ngọc mai khôi, lưu ly. Thanh tịnh rộng nghiêm sức. Trau giồi nơi các tháp. Hoặc có dựng miếu đá. Chiên đàn và trầm thủy. Gỗ mật cùng gỗ khác. Gạch ngói bùn đất thảy. Hoặc ở trong đồng trống. Chứa đất thành miếu Phật. Nhẫn đến đồng tử giỡn. Nhóm cát thành tháp Phật. Những hạng người như thế. Đều đã thành Phật đạo.


31. Nếu như người vì Phật. Xây dựng các hình tượng. Chạm trổ thành các tướng. Đều đã thành Phật đạo. Hoặc dùng bảy báu làm. Thau, đồng bạch, đồng đỏ. Chất nhôm cùng chì kẽm. Sắt, gỗ cùng với bùn. Hoặc dùng keo, sơn, vải. Nghiêm sức làm tượng Phật. Những người như thế đó. Đều đã thành Phật đạo. Vẽ vời làm tượng Phật. Trăm tướng phước trang nghiêm. Tự làm hoặc bảo người. Đều đã thành Phật đạo. Nhẫn đến đồng tử giỡn. Hoặc cỏ cây và bút. Hoặc lấy móng tay mình. Mà vẽ làm tượng Phật. Những hạng người như thế. Lần lần chứa công đức. Đầy đủ tâm đại bi. Đều đã thành Phật đạo. Chỉ dạy các Bồ Tát. Độ thoát vô lượng chúng.


32. Nếu người nơi tháp miếu. Tượng báu và tượng vẽ. Dùng hoa, hương, phan, lọng. Lồng kính mà cúng dường. Hoặc khiến người trổi nhạc. Đánh trống, thổi sừng ốc. Tiêu địch, cầm, không hầu. Tỳ bà, chụp chả đồng. Các tiếng hay như thế. Đem dùng cúng dường hết. Hoặc người lòng vui mừng. Ca ngâm khen Đức Phật. Nhẫn đến một tiếng nhỏ. Đều đã thành Phật đạo.


33. Nếu người lòng tán loạn. Nhẫn đến dùng một hoa. Cúng dường nơi tượng vẽ. Lần thấy các Đức Phật. Hoặc có người lễ lạy. Hoặc lại chỉ chắp tay. Nhẫn đến giơ một tay. Hoặc lại hơi cúi đầu. Dùng đây cúng dường tượng. Lần thấy vô lượng Phật. Tự thành đạo vô thượng. Rộng độ chúng vô số. Vào Vô dư Niết bàn. Như củi hết lửa tắt. Nếu người tâm tán loạn. Bước vào trong tháp chùa. Chỉ niệm Nam mô Phật. Đều đã thành Phật đạo. Nơi các Phật quá khứ. Tại thế, hoặc diệt độ. Có người nghe pháp này. Đều đã thành Phật đạo.


34. Các Thế Tôn vị lai. Số nhiều không thể lường. Các Đức Như Lai đó. Cùng phương tiện nói pháp. Tất cả các Như Lai. Dùng vô lượng phương tiện. Độ thoát các chúng sanh. Vào trí vô lậu Phật. Nếu có người nghe pháp. Không ai chẳng thành Phật. Các Phật vốn thệ nguyện. Ta tu hành Phật đạo. Khắp muốn cho chúng sanh. Cũng đồng được đạo này. Các Phật đời vị lai. Dầu nói trăm nghìn ức. Vô số các pháp môn. Kỳ thực vì nhất thừa. Các Phật Lưỡng Túc tôn. Biết pháp thường không tánh. Giống Phật theo duyên sanh. Cho nên nói nhứt thừa. Pháp đó trụ ngôi pháp. Tướng thế gian thường còn. Nơi đạo tràng biết rồi. Đức Phật phương tiện nói. Hiện tại mười phương Phật. Của trời người cúng dường. Số nhiều như hằng sa. Hiện ra nơi thế gian. Vì an ổn chúng sanh. Cũng nói pháp như thế. Biết vắng bặt thứ nhứt. Bởi dùng sức phương tiện. Dầu bày các món đạo. Kỳ thực vì Phật thừa. Biết các hạnh chúng sanh. Thâm tâm nó nghĩ nhớ. Nghiệp quen từ quá khứ. Tánh dục, sức tinh tấn. Và các căn lợi độn. Dùng các món nhân duyên. Thí dụ cùng lời lẽ. Tùy cơ phương tiện nói.


35. Ta nay cũng như vậy. Vì an ổn chúng sanh. Dùng các món pháp môn. Rao bày nơi Phật đạo. Ta dùng sức trí huệ. Rõ tính dục chúng sanh. Phương tiện nói các pháp. Đều khiến được vui mừng. Xá Lợi Phất nên biết! Ta dùng mắt Phật xem. Thấy sáu đường chúng sanh. Nghèo cùng không phước huệ. Vào đường hiểm sanh tử. Khổ nối luôn không dứt. Sâu tham nơi ngũ dục. Như trâu "mao" mến đuôi. Do tham ái tự che. Đui mù không thấy biết. Chẳng cầu Phật thế lớn. Cùng pháp dứt sự khổ. Sâu vào các tà kiến. Lấy khổ muốn bỏ khổ. Phật vì chúng sanh này. Mà sanh lòng đại bi.


36. Xưa, tu ngồi đạo tràng. Xem cây cùng kinh hành. Suy nghĩ việc như vầy. Trí huệ của ta được. Vi diệu rất thứ nhứt. Chúng sanh các căn chậm. Tham vui si làm mù. Các hạng người như thế. Làm sao mà độ được? Bấy giờ các Phạm vương. Cùng các trời Đế Thích. Bốn Thiên vương hộ đời. Và trời Đại Tự Tại. Cùng các thiên chúng khác. Trăm nghìn ức quyến thuộc. Chắp tay cung kính lễ. Thỉnh ta chuyển pháp luân. Ta liền tự suy nghĩ. Nếu chỉ khen Phật thừa. Chúng sanh chìm nơi khổ. Không thể tin pháp đó. Do phá pháp không tin. Rớt trong ba đường dữ. Ta thà không nói pháp. Mau vào cõi Niết bàn. Liền nhớ Phật quá khứ. Thực hành sức phương tiện. Ta nay chứng được đạo. Cũng nên nói ba thừa.


37. Lúc ta nghĩ thế đó. Mười phương Phật đều hiện. Tiếng Phạm an ủi ta. Hay thay! Đức Thích Ca. Bậc Đạo Sư thứ nhứt. Được pháp vô thượng ấy. Tùy theo tất cả Phật. Mà dùng sức phương tiện. Chúng ta cũng đều được. Pháp tối diệu thứ nhứt. Vì các loại chúng sanh. Phân biệt nói ba thừa. Trí kém ưa pháp nhỏ. Chẳng tự tin thành Phật. Cho nên dùng phương tiện. Phân biệt nói các quả. Dầu lại nói ba thừa. Chỉ vì dạy Bồ Tát.


38. Xá Lợi Phất nên biết! Ta nghe các Đức Phật. Tiếng nhiệm mầu rất sạch. Xưng: Nam mô chư Phật! Ta lại nghĩ thế này. Ta ra đời trược ác. Như các Phật đã nói. Ta cũng thuận làm theo. Suy nghĩ việc đó rồi. Liền đến thành Ba Nại. Các pháp tướng tịch diệt. Không thể dùng lời bày. Bèn dùng sức phương tiện. Vì năm Tỳ kheo nói. Đó gọi chuyển pháp luân. Bèn có tiếng Niết bàn. Cùng với A la hán. Tên pháp, tăng sai khác. Từ kiếp xa nhẫn lại. Khen bày Pháp Niết bàn. Dứt hẳn khổ sống chết. Ta thường nói như thế.


39. Xá Lợi Phất phải biết. Ta thấy các Phật tử. Chí quyết cầu Phật đạo. Vô lượng nghìn muôn ức. Đều dùng lòng cung kính. Đồng đi đến chỗ Phật. Từng đã theo các Phật. Nghe nói pháp phương tiện. Ta liền nghĩ thế này. Sở dĩ Phật ra đời. Để vì nói Phật huệ. Nay chính đã đúng giờ.


40. Xá Lợi Phất phải biết! Người căn chậm trí nhỏ. Kẻ chấp tướng kiêu mạn. Chẳng thể tin pháp này. Nay ta vui vô úy. Ở trong hàng Bồ Tát. Chính bỏ ngay phương tiện. Chỉ nói đạo vô thượng. Bồ Tát nghe pháp đó. Đều đã trừ lưới nghi. Nghìn hai trăm La hán. Cũng đều sẽ thành Phật. Như nghi thức nói pháp. Của các Phật ba đời. Ta nay cũng như vậy. Nói pháp không phân biệt. Các Đức Phật ra đời. Lâu xa khó gặp gỡ. Chính sử hiện ra đời. Nói pháp này khó hơn. Vô lượng vô số kiếp. Nghe pháp này cũng khó. Hay nghe được pháp này. Người đó cũng lại khó. Thí như hoa linh thoại. Tất cả đều ưa mến. Ít có trong trời, người. Lâu lâu một lần trổ.


41. Người nghe pháp mừng khen. Nhẫn đến nói một lời. Thời là đã cúng dường. Tất cả Phật ba đời. Người đó rất ít có. Hơn cả hoa Ưu đàm. Các ông chớ có nghi. Ta là vua các pháp. Khắp bảo các đại chúng. Chỉ dùng đạo nhứt thừa. Dạy bảo các Bồ Tát. Không Thanh văn đệ tử.


42. Xá Lợi Phất các ông! Thanh văn và Bồ Tát. Phải biết pháp mầu này. Bí yếu của các Phật. Bởi đời ác năm trược. Chỉ tham ưa các dục. Những chúng sanh như thế. Trọn không cầu Phật đạo. Người ác đời sẽ tới. Nghe Phật nói nhứt thừa. Mê lầm không tin nhận. Phá pháp đọa đường dữ. Người tâm quí trong sạch. Quyết chí cầu Phật đạo. Nên vì bọn người ấy. Rộng khen đạo nhất thừa. Xá Lợi Phất nên biết. Pháp các Phật như thế. Dùng muôn ức phương tiện. Tùy thời nghi nói pháp. Người chẳng học tập tu. Không hiểu được pháp này. Các ông đã biết rõ. Phật là thầy trong đời. Việc phương tiện tùy nghi. Không còn lại nghi lầm. Lòng sinh rất vui mừng. Tự biết sẽ thành Phật.




Sự tích tả
KINH PHÁP HOA
ÔNG NGHIÊM CUNG


Nước Tàu, triều nhà Trần niên hiệu Đại Kiến năm đầu, ở xứ Dương Châu có ông Nghiêm Cung tả kinh Pháp Hoa để phân phát cho người trì tụng. Lúc đó có thần ở miếu Cung Đình Hồ mách mộng cho khách buôn đem hết của trong miếu đưa sang trao cho ông Cung để chi phí về việc tả kinh. Lại một hôm ông Cung mang tiền ra phố mua giấy viết lỡ thiếu 3.000 đồng điếu, bỗng thấy từ trong chợ đi ra một người cầm 3.000 đồng điếu trao cho ông Cung mà nói: "Giúp ông mua giấy". Nói xong biến mất. Rốt đời Tùy, giặc cướp đến Giang Đô đều dặn nhau không nên phạm đến xóm của ông Nghiêm Pháp Hoa (Nghiêm Cung). Nhờ đó mà cả xóm an lành. Đến cuối đời Đường, nhà họ Nghiêm vẫn nối nhau tả kinh không thôi. Vậy thì tả kinh, hay in kinh công đức lớn biết dường nào, không nói đến phước báu tốt đẹp ở nhiều đời sau, mà ngay trong hiện tại cũng không thể lường được, chẳng những là mình khỏi khổ ngay mà ngay mọi người ở gần cũng được nhờ, cả Thần Thánh cũng thường theo hộ trợ như truyện ông Nghiêm Cung đây vậy.




THÍCH NGHĨA
(31) Phương chước hay phương pháp tiện lợi dễ dàng.






Kinh Pháp Hoa