Phẩm Thí Dụ Thứ Ba

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA - PHẨM THÍ DỤ THỨ BA
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập Hán Dịch. Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh Việt Dịch

1. Lúc bấy giờ Ngài Xá Lợi Phất hớn hở vui mừng, liền đứng dậy chấp tay chiêm ngưỡng dung nhan của Đức Phật mà bạch Phật rằng: Nay con theo Đức Thế Tôn nghe được tiếng pháp này, trong lòng hớn hở được điều chưa từng có. Vì sao? Con xưa theo Phật nghe pháp như thế này, thấy các vị Bồ Tát được thọ ký thành Phật mà chúng con chẳng được dự việc đó tự rất cảm thương mất vô lượng tri kiến của Như Lai.

Thế Tôn! Con thường khi một mình ở dưới cây trong núi rừng, hoặc ngồi hoặc đi kinh hành, hằng nghĩ như vậy: Chúng ta đồng vào pháp tánh, tại sao Đức Như Lai lại dùng pháp tiểu thừa mà tế độ cho?

Đó là lỗi của chúng con chớ chẳng phải là Thế Tôn vậy. Vì sao? Nếu chúng con chờ Phật nói pháp sở nhân thành đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác thời chắc do pháp Đại thừa mà được độ thoát. Song chúng con chẳng hiểu Phật phương tiện theo cơ nghi mà nói pháp, vừa mới nghe Phật nói pháp vội tin nhận suy gẫm để chứng lấy.

Thế Tôn! Con từ xưa đến nay trọn ngày luôn đêm hằng tự trách mình, mà nay được từ Phật nghe pháp chưa từng có, trước khi hề nghe, dứt các lòng nghi hối, thân ý thơ thới rất được an ổn. Ngày nay mới biết mình thật là Phật tử, từ miệng Phật sanh ra, từ pháp hóa sanh, được pháp phần của Phật.

Khi ấy, Ngài Xá Lợi Phất muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

2. Con nghe tiếng pháp này. Được điều chưa từng có. Lòng rất đổi vui mừng. Lưới nghi đều đã trừ. Xưa nay nhờ Phật dạy. Chẳng mất nơi Đại thừa. Tiếng Phật rất ít có. Hay trừ khổ chúng sanh. Con đã được lậu tận(1). Nghe cũng trừ lo khổ. Con ở nơi hang núi. Hoặc dưới cụm cây rừng. Hoặc ngồi hoặc kinh hành. Thường suy nghĩ việc này. Thôi ôi! Rất tự trách. Sao lại tự khi mình. Chúng ta cũng Phật tử. Đồng vào pháp vô lậu. Chẳng được ở vị lai. Nói pháp vô thượng đạo. Sắc vàng, băm hai tướng(2). Mười lực(3) các giải thoát. Đồng chung trong một pháp. Mà chẳng được việc đây. Tám mươi tướng tốt đẹp. Mười tám pháp bất cộng(4). Các công đức như thế. Mà ta đều đã mất.

3. Lúc con kinh hành riêng. Thấy Phật ở trong chúng. Danh đồn khắp mười phương. Rộng lợi ích chúng sanh. Tự nghĩ mất lợi này. Chính con tự khi dối. Con thường trong ngày đêm. Hằng suy nghĩ việc đó. Muốn đem hỏi Thế Tôn? Là mất hay không mất? Con thường thấy Thế Tôn. Khen ngợi các Bồ Tát(5). Vì thế nên ngày đêm. Suy lường việc như vậy.

4. Nay nghe tiếng Phật nói. Theo cơ nghi dạy Pháp. Vô lậu khó nghĩ bàn. Khiến chúng đến đạo tràng. Con xưa chấp tà kiến. Làm thầy các Phạm chí(6). Thế Tôn rõ tâm con. Trừ tà nói Niết bàn. Con trừ hết tà kiến. Được chứng nơi pháp không. Bấy giờ lòng tự bảo. Được đến nơi diệt độ. Mà nay mới tự biết. Chẳng phải thực diệt độ. Nếu lúc được thành Phật. Đủ ba mươi hai tướng. Trời, người, chúng, dạ xoa. Rồng, thần đều cung kính. Bấy giờ mới được nói. Dứt hẳn hết không thừa. Phật ở trong đại chúng. Nói con sẽ thành Phật. Nghe tiếng pháp như vậy. Lòng nghi hối đã trừ.

5. Khi mới nghe Phật nói. Trong lòng rất sợ nghi. Phải chăng ma giả Phật. Não loạn lòng ta ư? Phật dùng các món duyên. Thí dụ khéo nói phô. Lòng kia an như biển. Con nghe, lưới nghi dứt. Phật nói thuở quá khứ. Vô lượng Phật diệt độ. An trụ trong phương tiện. Cũng đều nói pháp đó. Phật hiện tại, vị lai. Số nhiều cũng vô lượng. Cũng dùng các phương tiện. Diễn nói pháp như thế. Như Thế Tôn ngày nay. Từ sanh đến xuất gia. Được đạo Chuyển pháp luân. Cũng dùng phương tiện nói. Thế Tôn nói đạo thật. Ba tuần(7) không nói được. Vì thế con định biết. Không phải ma giả Phật. Con sa vào lưới nghi. Cho là ma làm ra. Nghe tiếng Phật êm dịu. Sâu xa rất nhiệm mầu. Nói suốt pháp thanh tịnh. Tâm con rất vui mừng. Nghi hối đã hết hẳn. An trụ trong thật trí. Con quyết sẽ thành Phật. Được trời, người cung kính. Chuyển pháp luân vô thượng. Giáo hóa các Bồ Tát.

6. Lúc bấy giờ, Đức Phật bảo Ngài Xá Lợi Phất: "Ta nay ở trong hàng trời, người, sa môn, bà la môn mà nói. Ta xưa từng ở nơi hai muôn ức Phật vì đạo vô thượng nên thường giáo hóa ông, ông cũng lâu dài theo ta thọ học, ta dùng phương tiện dẫn dắt ông sanh vào trong pháp ta." Xá Lợi Phất! Ta thuở xưa dạy ông chí nguyện Phật đạo, ông nay đều quên mà bèn tự nói đã được diệt độ. Ta nay lại muốn khiến ông nghĩ nhớ bản nguyện cùng đạo đã làm, mà vì các Thanh văn nói kinh Đại thừa tên là: "Diệu Pháp Liên Hoa" là pháp giáo hoá Bồ Tát được chư Phật hộ niệm.

7. Xá Lợi Phất! Ông đến đời vị lai, quá vô lượng vô biên bất khả tư nghì kiếp, cúng dường bao nhiêu nghìn muôn ức Phật, phụng trì chánh pháp đầy đủ đạo tu hành của Bồ Tát, sẽ thành Phật hiệu là Hoa Quang Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn.

Nước tên: Ly Cấu, cõi đó bằng thẳng thanh tịnh đẹp đẽ an ổn giàu vui, trời người đông đảo. Lưu ly làm đất, có tám đường giao thông, dây bằng vàng ròng để giăng bên đường, mé đường đều có hàng cây bằng bảy báu, thường có hoa trái. Đức Hoa Quang Như Lai cũng dùng ba thừa giáo hóa chúng sanh.

Xá Lợi Phất! Lúc Đức Phật ra đời dầu không phải là đời ác mà bởi bản nguyện nên nói pháp ba thừa. Kiếp đó tên là "Đại Bảo Trang Nghiêm". Vì sao gọi là "Đại Bảo Trang Nghiêm"? Vì trong cõi đó dùng Bồ Tát làm "Đại Bảo" vậy. Các Bồ Tát trong số đông vô lượng vô biên bất khả tư nghì, tính kể hay thí dụ đều không đến được, chẳng phải sức trí huệ của Phật không ai có thể biết được. Khi muốn đi thì có hoa đỡ chân.

Các vị Bồ Tát đó không phải hàng mới phát tâm, đều đã trồng cội từ lâu. Ở nơi vô lượng trăm nghìn muôn ức Đức Phật, tịnh tu phạm hạnh hằng được các Phật khen. Thường tu trí huệ của Phật đủ sức thần thông lớn, khéo biết tất cả các pháp môn, ngay thật không dối, chí niệm bền vững bậc Bồ Tát như thế, khắp đầy nước đó.

Xá Lợi Phất! Đức Phật Hoa Quang thọ mười hai tiểu kiếp, trừ còn làm vương tử chưa thành Phật. Nhân dân nước đó thọ tám tiểu kiếp. Đức Hoa Quang Như Lai quá mười hai tiểu kiếp thọ ký vô thượng chánh đẳng chánh giác cho Kiên Mãn Bồ Tát mà bảo các Tỳ kheo: Ông Kiên mãn Bồ Tát này kế đây sẽ thành Phật hiệu là Hoa Túc An Hành Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, cõi nước của Đức Phật đó cũng lại như đây.

Xá Lợi Phất! Sau khi Phật Hoa Quang đó diệt độ, chánh pháp trụ lại trong đời ba mươi hai tiểu kiếp, tượng pháp trụ đời cũng ba mươi hai tiểu kiếp.

Lúc ấy, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

8. Xá Lợi Phất đời sau. Thành đấng Phật trí khắp. Hiệu rằng: Phật Hoa Quang. Sẽ độ vô lượng chúng. Cúng dường vô số Phật. Đầy đủ hạnh Bồ Tát. Các công đức thập lực. Chứng được đạo vô thượng. Quá vô lượng kiếp rồi. Kiếp tên Đại Bảo Nghiêm. Cõi nước tên Ly Cấu. Trong sạch không vết nhơ. Dùng lưu ly làm đất. Dây vàng giăng đường sá. Cây bảy báu sắc đẹp. Thường có hoa cùng trái. Bồ Tát trong cõi đó. Chí niệm thường bền vững. Thần thông ba la mật. Đều đã trọn đầy đủ. Nơi vô số Đức Phật. Khéo học đạo Bồ Tát. Những Đại sĩ như thế. Phật Hoa Quang hóa độ. Lúc Phật làm vương tử. Rời nước bỏ vinh hoa. Nơi thân cuối rốt sau. Xuất gia thành Phật đạo. Phật Hoa Quang trụ thế. Thọ mười hai tiểu kiếp. Chúng nhân dân nước đó. Sống lâu tám tiểu kiếp. Sau khi Phật diệt độ. Chánh pháp trụ ở đời. Ba mươi hai tiểu kiếp. Rộng độ các chúng sanh. Chánh pháp diệt hết rồi. Tượng pháp cũng băm hai. Xá lợi rộng truyền khắp. Trời, người, khắp cúng dường. Phật Hoa Quang chỗ làm. Việc đó đều như thế. Đấng Lưỡng Túc Tôn kia. Rất hơn không ai bằng. Phật tức là thân ông. Nên phải tự vui mừng.

9. Bấy giờ bốn bộ chúng: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Cận sự nam, Cận sự nữ và cả đại chúng: trời, rồng, dạ xoa, càn thát bà, a tu la, ca lâu la, khẩn na la, ma hầu la dà, v.v... thấy Xá Lợi Phất ở trước Phật lãnh lấy lời dự ghi sẽ thành vô thượng chánh đẳng chánh giác, lòng rất vui mừng hớn hở vô lượng. Mỗi người đều cởi y trên của mình đang đắp để cúng dường Phật.

Thích Đề Hoàn Nhơn cùng Phạm Thiên Vương v.v... và vô số thiên tử cũng đem y đẹp của trời, hoa trời mạn đà la, ma ha mạn đà la v.v... cúng dường nơi Phật. Y trời tung lên liền trụ giữa hư không mà tự xoay chuyển. Các kỹ nhạc trời trăm nghìn muôn thứ ở giữa hư không đồng thời đều trổi. Rưới các thứ hoa trời mà nói lời rằng: "Đức Phật xưa ở thành Ba La Nại, ban đầu chuyển pháp luân rất lớn vô thượng".

Lúc đó các Thiên tử muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

10. Xưa ở thành Ba Nại. Chuyển pháp luân Tứ Đế. Phân biệt nói các pháp. Sanh diệt của năm nhóm(8). Nay lại chuyển pháp luân. Rất lớn diệu vô thượng. Pháp đó rất sâu mầu. Ít có người tin được. Chúng ta từ xưa lại. Thường nghe Thế Tôn nói. Chưa từng nghe thượng pháp. Thâm diệu như thế này. Thế Tôn nói pháp đó. Chúng ta đều tùy hỷ. Đại trí Xá Lợi Phất. Nay được lãnh Phật ký. Chúng ta cũng như vậy. Quyết sẽ được thành Phật. Trong tất cả thế gian. Rất tôn không còn trên. Phật đạo chẳng thể bàn. Phương tiện tùy nghi nói. Ta bao nhiêu nghiệp phước. Đời nay hoặc quá khứ. Và công đức thấy Phật. Trọn hồi hướng Phật đạo.

11. Bấy giờ, Xá Lợi Phất bạch rằng: "Thế Tôn! Con nay không còn nghi hối, tự mình ở trước Phật được thọ ký thành vô thượng chánh đẳng chánh giác. Các vị tâm tự tại một nghìn hai trăm đây, lúc xưa ở bậc hữu học, Phật thường dạy rằng: "Pháp của ta hay lìa sanh, già, bệnh, chết rốt ráo niết bàn". Các vị hữu học vô học đây cũng đều đã tự rời chấp ngã cùng chấp có, chấp không v.v... nói là được niết bàn, mà nay ở trước Đức Thế Tôn nghe chỗ chưa từng nghe, đều sa vào nghi lầm. Hay thay Thế Tôn! Xin Phật vì bốn chúng nói nhân duyên đó, khiến lìa lòng nghi hối."

12. Khi ấy, Phật bảo Ngài Xá Lợi Phất: Ta trước đâu không nói rằng: "Các Phật Thế Tôn dùng các món nhân duyên lời lẽ thí dụ phương tiện mà nói pháp đều là vô thượng chánh đẳng chánh giác ư? Các điều nói đó đều vì dạy Bồ Tát vậy. Nhưng Xá Lợi Phất! Nay ta sẽ dùng một thí dụ để chỉ rõ lại nghĩa đó, những người có trí do thí dụ mà được hiểu."

13. Xá Lợi Phất! Như trong quốc ấp, tụ lạc có vị đại Trưởng giả tuổi đã già suy, của giàu vô lượng, có nhiều nhà ruộng và các tôi tớ. Nhà ông rộng lớn mà chỉ có một cửa để ra vào, người ở trong đó rất đông; hoặc một trăm, hai trăm cho đến năm trăm người, lầu gác đã mục, vách phên sụp đổ, chân cột hư nát, trính xiêng xiêu ngã, bốn phía đồng một lúc, lửa bỗng nổi lên đốt cháy nhà cửa.

14. Các người con của Trưởng giả hoặc mười người, hoặc hai mươi người, hoặc đến ba mươi người ở trong nhà đó. Trưởng giả thấy lửa từ bốn phía nhà cháy lên, liền rất sợ sệt mà nghĩ rằng: Ta dầu có thể ở nơi cửa của nhà cháy này, ra ngoài rất an ổn, song các con ở trong nhà lửa ưa vui chơi giỡn không hay biết, không sợ sệt, lửa đến đốt thân rất đau khổ lắm, mà lòng chẳng nhàm lo, không có ý cầu ra khỏi.

Xá Lợi Phất! Ông Trưởng giả đó lại nghĩ: thân và tay của ta có sức mạnh, nên dùng vạt áo hoặc dùng ghe đẳng từ trong nhà mà ra ngoài. Ông lại nghĩ: Nhà này chỉ có một cái cửa mà lại hẹp nhỏ, các con thơ bé chưa hiểu, mê đắm chơi giỡn hoặc vấp ngã bị lửa đốt cháy, ta nên vì chúng nó mà nói những việc đáng sợ.

Nhà này đã bị cháy phải mau ra liền, chớ để bị lửa đốt hại. Nghĩ như thế theo chỗ đã nghĩ đó mà bảo các con: "Các con mau ra!" Cha dầu thương xót khéo nói để dụ dỗ, mà các người con ưa vui chơi chẳng khứng tin chịu, chẳng sợ sệt, trọn không có lòng muốn ra, lại cũng chẳng hiểu gì là lửa? gì là nhà? thế nào là hại? Chỉ cứ đông tây chạy giỡn nhìn cha mà thôi.

15. Bấy giờ, Trưởng giả liền nghĩ nhà này đã bị lửa lớn đốt cháy, ta cùng các con nếu không ra liền chắc sẽ bị cháy, ta nay nên bày chước phương tiện khiến cho các con được khỏi nạn này.

Cha biết các con đều vẫn có lòng thích các đồ chơi trân báu lạ lùng, nếu có, chắc chúng nó ưa đắm, mà bảo các con rằng: "Đây này là những món ít có khó được mà các con có thể vui chơi, nếu các con không ra lấy sau chắc buồn ăn năn. Các thứ xe dê, xe hươu, xe trâu như thế, nay ở ngoài cửa có thể dùng dạo chơi, các con ở nơi nhà lửa nên mau ra đây tùy ý các con muốn, cha đều sẽ cho các con".

Lúc bấy giờ, các người con nghe cha nói đồ chơi báu đẹp vừa ý mình nên lòng mỗi người đều mạnh mẽ xô đẩy lẫn nhau cùng đua nhau ruổi chạy tranh ra khỏi nhà lửa. Khi đó trưởng giả thấy các con được an ổn ra khỏi nhà lửa đều ở trong đường ngã tư nơi đất trống không còn bị chướng ngại, tâm ông thơ thới vui mừng hớn hở.

Bấy giờ, các người con đều thưa với cha rằng: "Cha lúc nãy hứa cho những đồ chơi tốt đẹp, nào xe dê, xe hươu, xe trâu xin liền ban cho."

16. Xá Lợi Phất! Khi đó Trưởng giả đều cho các con đồng một thứ xe lớn, xe đó cao rộng chưng dọn bằng các món báu, lan can bao quanh, bốn phía treo linh, lại dùng màn lọng giăng che ở trên, cũng dùng đồ báu đẹp tốt lạ mà trau giồi đó, dây bằng báu kết thắt các dải hoa rủ xuống, nệm chiếu mềm mại trải chồng, gối đỏ để trên, dùng trâu trắng kéo, sắc da mập sạch thân hình mập đẹp, có sức rất mạnh bước đi ngay bằng mau lẹ như gió, lại có đông tôi tớ để hầu hạ đó.

Vì cớ sao? Vì ông Trưởng giả đó của giàu vô lượng, các thứ kho tàng thảy đều đầy ngập, ông nghĩ rằng: "Của cải của ta nhiều vô cực, không nên dùng xe nhỏ xấu kém mà cho các con, nay những trẻ thơ này đều là con của ta, đồng yêu không thiên lệch, ta có xe bằng bảy báu như thế số nhiều vô lượng nên lấy lòng bình đẳng mà đều cho chúng nó, chẳng nên sai khác."

Vì sao? Dầu đem xe của ta đó khắp cho cả người một nước hãy còn không thiếu huống gì các con. Lúc ấy các người con đều ngồi xe lớn được điều chưa từng có, không phải chỗ trước kia mình trông.

17. Xá Lợi Phất! Ý của ông nghĩ sao? Ông Trưởng giả đó đồng đem xe trân báu lớn cho các người con, có lỗi hư vọng chăng? Xá Lợi Phất thưa: "Thưa Thế Tôn ! Không, ông Trưởng giả chỉ làm cho các con được khỏi nạn lửa, toàn thân mạng chúng nó chẳng phải là hư vọng. Vì sao? Nếu được toàn thân mạng bèn đã được đồ chơi tốt đẹp, huống nữa là dùng phương tiện cứu vớt ra khỏi nhà lửa.

Thế Tôn! Dầu ông Trưởng giả đó nhẫn đến chẳng cho một thứ xe rất nhỏ còn chẳng phải hư vọng. Vì sao? Vì ông Trưởng giả đó trước có nghĩ như vầy: Ta dùng trước phương tiện cho các con được ra khỏi, vì nhân duyên đó nên không hư vọng vậy. Huống gì ông Trưởng giả tự biết mình của giàu vô lượng muốn lợi ích các con mà đồng cho xe lớn!"

18. Phật bảo Ngài Xá Lợi Phất: "Hay thay! Hay thay! Như lời ông nói, Xá Lợi Phất! Như Lai cũng lại như thế, Phật là cha của tất cả thế gian, ở nơi các sự sợ hãi suy não lo buồn vô minh che tối hết hẳn không còn thừa, mà trọn thành tựu vô lượng tri kiến, trí lực, vô sở úy; có sức đại thần thông cùng sức trí huệ đầy đủ các món phương tiện. Trí huệ ba la mật, đại từ đại bi thường không hề lười mỏi. Hằng vì cầu việc lành lợi cho tất cả muôn loại mà sanh vào nhà lửa tam giới cũ mục này, để độ chúng sanh ra khỏi nạn lửa; sanh, già, bệnh, chết, lo buồn khổ não, ngu si tối tăm, ba độc; dạy bảo cho chúng sanh được vô thượng chánh đẳng chánh giác.

19. Ta thấy, các chúng sanh bị những sự sanh, già, bệnh, chết, lo buồn khổ não nó đốt cháy, cũng vì năm món dục(9) tài lợi mà bị các điều thống khổ. Lại vì tham mê đeo đuổi tìm cầu nên hiện đời thọ các điều khổ, đời sau thọ khổ địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ. Nếu sanh lên trời và ở trong loài người thời nghèo cùng khốn khổ, bị khổ về người yêu thường xa lìa, kẻ oán ghét lại gặp gỡ. Các món khổ như thế chúng sanh chìm trong đó vui vẻ dạo chơi, chẳng hay biết, chẳng kinh chẳng sợ, cũng chẳng sanh lòng nhàm không cầu giải thoát; ở trong nhà lửa tam giới này đông tây rảo chạy dầu bị khổ nhiều vẫn chẳng lấy làm lo.

20. Xá Lợi Phất! Đức Phật thấy việc này rồi bèn nghĩ rằng: Ta là cha của chúng sanh nên cứu chúng nó ra khỏi nạn khổ đó, ban vô lượng vô biên món trí huệ vui của Phật để chúng nó dạo chơi.

21. Xá Lợi Phất! Đức Như Lai lại nghĩ: Nếu ta chỉ dùng sức thần thông cùng sức trí huệ bỏ chước phương tiện, mà vì chúng sanh khen ngợi các món tri kiến, trí lực, vô sở úy của Như Lai, ắt chúng sanh chẳng có thể do đó mà được độ thoát. Vì sao? Vì các chúng sanh đó chưa khỏi sự sanh, già, bệnh, chết, lo buồn, đau khổ, đương bị thiêu đốt trong nhà lửa tam giới, làm sao có thể hiểu được trí huệ của Phật. Xá Lợi Phất! Như ông Trưởng giả kia dầu thân và tay có sức mạnh mà chẳng dùng đó, chỉ ân cần phương tiện gắng cứu các con thoát nạn nhà lửa, rồi sau đều cho xe trân báu lớn.

Đức Như Lai cũng lại như thế, dầu có trí lực cùng sức vô úy(10) mà chẳng dùng đến, chỉ dùng trí huệ phương tiện nơi nhà lửa tam giới cứu vớt chúng sanh, vì chúng sanh nói ba thừa Thanh văn, Duyên giác cùng Phật thừa mà bảo rằng: "Các ngươi không nên ưa ở trong nhà lửa tam giới, chớ có ham mê các món sắc, thanh, hương, vị, xúc thô hèn, nếu tham, mê ắt sinh ái nhiễm thời sẽ bị nó đốt; các ngươi mau ra khỏi ba cõi sẽ được chứng ba thừa: Thanh văn, Duyên giác và Phật thừa. Nay ta vì các người mà bảo nhiệm việc đó quyết không dối vậy. Các người chỉ nên siêng năng tinh tấn tu hành".

Đức Như Lai dùng phương tiện ấy để dụ dẫn chúng sanh thẳng đến, lại bảo: "Các ngươi nên biết rằng pháp ba thừa đó đều là pháp của các đấng Thánh khen ngợi, là pháp tự tại không bị ràng buộc không còn phải nương gá tìm cầu, ngồi trong ba thừa này dùng các món căn, lực, giác chi, thánh đạo(11), thiền định vô lậu cùng giải thoát tam muội v.v... để tự vui sướng, được vô lượng sự an ổn khoái lạc".

22. Xá Lợi Phất! nếu có chúng sanh nào bề trong có trí tánh, theo Đức Phật Thế Tôn nghe pháp tin nhận ân cần tinh tấn, muốn chóng ra khỏi ba cõi tự cầu chứng Niết bàn, gọi đó là Thanh văn thừa, như các người con kia vì cầu xe dê mà ra khỏi nhà lửa.

Nếu có chúng sanh nào theo Đức Thế Tôn nghe pháp, tin nhận, rồi ân cần tinh tấn, cầu trí huệ tự nhiên ưa thích riêng lẻ vắng lặng, sâu rõ nhân duyên của các pháp, gọi đó là Duyên giác thừa, như các người con kia vì cầu xe hươu mà ra khỏi nhà lửa.

Nếu có chúng sanh nào theo Đức Phật Thế Tôn nghe pháp tin nhận, siêng tu tinh tấn cầu nhứt thiết trí, Phật trí, tự nhiên trí, vô sư trí, các món tri kiến lực, vô úy của Như Lai, có lòng thương xót làm an vui cho vô lượng chúng sanh, lợi ích trời, người, độ thoát tất cả, hạng đó gọi là Đại thừa, Bồ Tát vì cầu được thừa này thời gọi là Ma ha tát, như các người con kia cầu xe trâu mà ra khỏi nhà lửa.

23. Xá Lợi Phất! Như ông Trưởng giả kia thấy các con được an ổn ra khỏi nhà lửa đến chỗ vô úy, ông tự nghĩ, ta của giàu vô lượng, nên bình đẳng đem xe lớn đồng cho các con. Đức Như Lai cũng lại như thế, là cha của tất cả chúng sanh, nếu thấy có vô lượng nghìn ức chúng sanh do cửa Phật giáo mà thoát khỏi khổ, đường hiểm đáng sợ của ba cõi được sự vui Niết bàn.

Bấy giờ, Đức Như Lai bèn nghĩ: "Ta có vô lượng vô biên trí huệ, lực vô úy v.v... tạng pháp của các Đức Phật, các chúng sanh này đều là con của ta đồng ban cho pháp Đại thừa, chẳng để có người được diệt độ riêng, đều đem pháp diệt độ của Như Lai mà cho chúng sanh nó diệt độ.

Những chúng sanh đã thoát khỏi ba cõi đó, Phật đều cho món vui thiền định, giải thoát v.v... của các Đức Phật, các món đó đều là một tướng, một thứ mà các đấng Thánh khen ngợi, hay sanh ra sự vui sạch mầu bậc nhất.

24. Xá Lợi Phất! Như ông Trưởng giả ban đầu dùng ba thứ xe dụ dẫn các con, sau rồi chỉ ban cho xe lớn vật báu trang nghiêm an ổn thứ nhất, song ông Trưởng giả kia không có lỗi hư dối. Đức Như Lai cũng như thế, không có hư dối, ban đầu nói ba thừa dẫn dắt chúng sanh sau rồi chỉ dùng Đại thừa mà độ giải thoát đó.

Vì sao? Như Lai có vô lượng tạng pháp trí huệ, lực, vô sở úy, có thể ban pháp Đại thừa cho tất cả chúng sanh, chỉ vì chúng sanh không thọ được hết.

Xá Lợi Phất! Vì nhân duyên đó nên phải biết các Đức Như Lai dùng sức phương tiện ở nơi một Phật thừa phân biệt nói thành ba.

Đức Phật muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

25. Thí như ông Trưởng giả. Có căn nhà rất lớn. Nhà đó đã lâu cũ. Mà lại rất xấu xa. Phòng nhà vừa cao nguy. Gốc cột lại gẫy mục. Trính xiêng đều xiêu vẹo. Nền móng đã nát rã. Vách phên đều sụp đổ. Đất bùn rơi rớt xuống. Tranh lợp sa tán loạn. Kèo đòn tay rời khớp. Bốn bề đều cong vạy. Khắp đầy những tạp nhơ. Có đến năm trăm người. Ở đỗ nơi trong đó. Chim xi, hiêu, điêu, thứu. Quạ, chim thước, cưu, cáp. Loài ngoan xà, phúc yết. Giống ngô công, do diên. Loài thủ cung, bá túc. Dứu ly cùng hề thử. Các giống độc trùng dữ. Ngang dọc xen ruỗi chạy. Chỗ phẩn giải hôi thối. Đồ bất tịnh chảy tràn. Các loài trùng khương lương. Bu nhóm ở trên đó. Cáo, sói cùng dã can. Liếm nhai và dày đạp. Cắn xé những thây chết. Xương thịt bừa bãi ra. Do đây mà bầy chó. Đua nhau đến ngoạm lấy. Ốm đói và sợ sệt. Nơi nơi tìm món ăn. Giành giựt cấu xé nhau. Gầm gừ gào sủa rên. Nhà đó sự đáng sợ. Những biến trạng dường ấy. Khắp chỗ đều có những. Quỷ, ly, mị, vọng, lượng. Quỷ Dạ xoa quỷ dữ. Nuốt ăn cả thịt người. Các loài trùng độc dữ. Những cầm thú hung ác. Ấp, cho bú sản sanh. Đều tự giấu gìn giữ. Quỷ Dạ xoa đua đến. Giành bắt mà ăn đó. Ăn đó no nê rồi. Lòng hung dữ thêm hăng. Tiếng chúng đánh cãi nhau. Thật rất đáng lo sợ. Những quỷ Cưu bàn trà. Ngồi xổm trên đống đất. Hoặc có lúc hỏng đất. Một thước hay hai thước. Qua rồi lại, dạo đi. Buông lung chơi cùng giỡn. Nắm hai chân của chó. Đánh cho la thất thanh. Lấy chân đạp trên cổ. Khủng bố chó để vui. Lại có các giống quỷ. Thân nó rất cao lớn. Trần truồng thân đen xấu. Thường ở luôn trong đó. Rền tiếng hung ác lớn. Kêu la tìm món ăn. Lại có các giống quỷ. Cổ nó nhỏ bằng kim. Lại có các giống quỷ. Đầu nó như đầu trâu. Hoặc là ăn thịt người. Hoặc là ăn thịt chó. Đầu tóc rối tung lên. Rất ác lại hung hiểm. Bị đói khát bức ngặt. Kêu la vừa rong chạy. Dạ xoa cùng quỷ đói. Các chim muông ác độc. Đói gấp rảo bốn bề. Rình xem các cửa sổ. Các nạn dường thế đấy. Vô lượng việc ghê sợ(12).

26. Nhà cũ mục trên đó. Thuộc ở nơi một người. Người ấy vừa mới ra. Thời gian chưa bao lâu. Rồi sau nhà cửa đó. Bỗng nhiên lửa cháy đỏ. Đồng một lúc bốn bề. Ngọn lửa đều hừng hực. Rường cột và trính xiêng. Tiếng tách nổ vang động. Nát gẫy rơi rớt xuống. Vách phên đều lở ngã. Các loại quỷ thần thảy. Đồng cất tiếng kêu to. Các giống chim điêu, thứu. Quỷ Cưu bàn trà thảy. Kinh sợ chạy sảng sốt. Vẫn không tự ra được. Thú dữ loài trùng độc. Chui núp trong lỗ hang. Các quỷ Tỳ xá xà. Cũng ở trong hang đó. Vì phước đức kém vậy. Bị lửa đến đốt bức. Lại tàn hại lẫn nhau. Uống máu ăn thịt nhau. Những loại thú dã can. Thời đều đã chết trước. Các giống thú dữ lớn. Giành đua đến ăn nuốt. Khói tanh bay phùn phụt. Phủ khắp bít bốn bề. Loài ngô công, do diên. Cùng với rắn hung độc. Bị lửa lòn đốt cháy. Tranh nhau chạy khỏi hang. Quỷ Bàn trà rình chờ. Liền bắt lấy mà ăn. Lại có các ngã quỷ. Trên đầu lửa rực cháy. Đói khát rất nóng khổ. Sảng sốt chạy quàng lên. Nhà lửa đó dường ấy. Rất đáng nên ghê sợ. Độc hại cùng tai lửa. Các nạn chẳng phải một.

27. Lúc bấy giờ chủ nhà. Đứng ở nơi ngoài cửa. Nghe có người mách rằng. Các người con của ông. Trước đây vì dạo chơi. Mà đến vào nhà này. Thơ bé không hiểu biết. Chỉ vui ham ưa đắm. Trưởng giả vừa nghe xong. Kinh sợ vào nhà lửa. Tìm phương nghi cứu tế. Cho con khỏi thiêu hại. Mà dụ bảo các con. Nói rõ các hoạn nạn. Nào ác quỷ độc trùng. Hỏa tai lan tràn cháy. Các sự khổ thứ lớp. Nối luôn không hề dứt. Loài độc xà, ngươn phúc. Và các quỷ Dạ xoa. Cùng quỷ Cưu bàn trà. Những dã can, chồn, chó. Chim điêu, thứu xi, hiêu. Lại giống bá túc thảy. Đều đói khát khổ gấp. Rất đáng phải ghê sợ. Chỗ khổ nạn như thế. Huống lại là lửa lớn. Các con nhỏ không hiểu. Dầu có nghe cha dạy. Cứ vẫn còn ham ưa. Vui chơi mãi không thôi.

28. Bấy giờ trưởng giả kia. Mới bèn nghĩ thế này. Các con như thế đó. Làm ta thêm sầu não. Nay trong nhà lửa này. Không một việc đáng vui. Mà các con ngây dại. Vẫn ham mê vui chơi. Chẳng chịu nghe lời ta. Toan sẽ bị lửa hại. Ông bèn lại suy nghĩ. Nên bày các phương tiện. Bảo với các con rằng. Cha có rất nhiều thứ. Các đồ chơi trân kỳ. Những xe báu tốt đẹp. Nào xe dê, xe hươu. Cùng với xe trâu lớn. Hiện để ở ngoài cửa. Các con mau ra đây. Cha chính vì các con. Mà sắm những xe này. Tùy ý các con thích. Có thể để dạo chơi. Các con nghe cha nói. Các thứ xe như vậy. Tức thời cùng giành đua. Rảo chạy ra khỏi nhà. Đến nơi khoảng đất trống. Rời những sự khổ nạn. Trưởng giả thấy các con. Được ra khỏi nhà lửa. Ở nơi ngã tư đường. Đều ngồi tòa sư tử. Ông bèn tự mừng rằng. Ta nay rất mừng vui. Những đứa con ta đây. Đẻ nuôi rất khó lắm. Chúng nhỏ dại không hiểu. Mới lầm vào nhà hiểm. Có nhiều loài trùng độc. Quỷ, Ly mị đáng sợ. Lửa lớn cháy hừng hực. Bốn phía đều phựt lên. Mà các trẻ con này. Lại ham ưa vui chơi. Nay ta đã cứu chúng. Khiến đều được thoát nạn. Vì thế các người ơi! Ta nay rất vui mừng. Khi ấy các người con. Biết cha đã ngồi an. Đều đến bên chỗ cha. Mà thưa cùng cha rằng. Xin cha cho chúng con. Ba thứ xe báu lạ. Như vừa rồi cha hứa. Các con mau ra đây. Sẽ cho ba thứ xe. Tùy ý các con muốn. Bây giờ chính phải lúc. Xin cha thương cấp cho.

29. Trưởng giả giàu có lớn. Kho đụn rất nhiều đầy. Vàng bạc cùng lưu ly. Xa cừ ngọc mã não. Dùng những món vật báu. Tạo thành các xe lớn. Chưng dọn trang nghiêm đẹp. Khắp vòng có bao lơn. Bốn mặt đều treo linh. Dây vàng xen thắt tụi. Lưới mành kết trân châu. Giăng bày phủ phía trên. Hoa vàng các chuỗi ngọc. Lòng thòng rủ khắp chỗ. Các màu trang sức đẹp. Khắp vòng xây quanh xe. Dùng nhiễu hàng mềm mại. Để làm nệm lót ngồi. Vải quí mịn rất tốt. Giá trị đến nghìn muôn. Bóng láng trắng sạch sẽ. Dùng trải trùm trên nệm. Có trâu trắng to lớn. Mập khỏe nhiều sức mạnh. Thân hình rất tươi tốt. Để kéo xe báu đó. Đông những tôi và tớ. Mà chực hầu giữ gìn. Đem xe đẹp như thế. Đồng ban cho các con. Các con lúc bấy giờ. Rất vui mừng hớn hở. Ngồi trên xe báu đó. Dạo đi khắp bốn phương. Vui chơi nhiều khoái lạc. Tự tại không ngăn ngại.

30. Bảo Xá Lợi Phất này. Đức Phật cũng như vậy. Tôn cả trong hàng Thánh. Cha lành của trong đời. Tất cả các chúng sanh. Đều là con của ta. Say mê theo thế lạc. Không có chút huệ tâm. Ba cõi hiểm không an. Dường như nhà lửa cháy. Các nạn khổ dẫy đầy. Rất đáng nên ghê sợ. Thường có những sanh, già. Bệnh, chết và rầu lo. Các thứ lửa như thế. Cháy hừng chẳng tắt dứt. Đức Như Lai đã lìa. Nhà lửa ba cõi đó. Vắng lặng ở thong thả. An ổn trong rừng nội. Hiện nay ba cõi này. Đều là của ta cả. Những chúng sanh trong đó. Cũng là con của ta. Mà nay trong ba cõi. Có nhiều thứ hoạn nạn. Chỉ riêng một mình ta. Có thể cứu hộ chúng. Dầu lại đã dạy bảo. Mà vẫn không tin nhận. Vì nơi các dục nhiễm. Rất sanh lòng tham mê. Bởi thế nên phương tiện. Vì chúng nói ba thừa. Khiến cho các chúng sanh. Rõ ba cõi là khổ. Mở bày cùng diễn nói. Những đạo pháp xuất thế. Các người con đó thảy. Nếu nơi tâm quyết định. Đầy đủ ba món minh(13). Và sáu món thần thông(14). Có người được Duyên Giác. Hoặc bất thối Bồ Tát. Xá Lợi Phất phải biết. Ta vì các chúng sanh. Dùng món thí dụ này. Để nói một Phật thừa. Các ông nếu có thể. Tin nhận lời nói đây. Tất cả người đều sẽ. Chứng thành quả Phật đạo.

31. Phật thừa đây vi diệu. Rất thanh tịnh thứ nhất. Ở trong các thế giới. Không còn pháp nào trên. Của các Phật vui ưa. Tất cả hàng chúng sanh. Đều phải nên khen ngợi. Và cúng dường lễ bái. Đủ vô lượng nghìn ức. Các trí lực, giải thoát. Thiền định và trí huệ. Cùng pháp khác của Phật. Chứng được thừa như thế. Khắp cho các con thảy. Ngày đêm cùng kiếp số. Thường được ngồi dạo chơi. Cho các hàng Bồ Tát. Cùng với chúng Thanh văn. Nương nơi thừa báu này. Mà thẳng đến đạo tràng. Vì bởi nhân duyên đó. Tìm kỹ khắp mười phương. Lại không thừa nào khác. Trừ Phật dùng phương tiện. Bảo với Xá Lợi Phất! Bọn ông các người thảy. Đều là con của ta. Ta thời là cha lành. Các ông trải nhiều kiếp. Bị các sự khổ đốt. Ta đều đã cứu vớt. Cho ra khỏi ba cõi. Ta dầu ngày trước nói. Các ông được diệt độ. Nhưng chỉ hết sanh tử. Mà thật thời chẳng diệt. Nay việc nên phải làm. Chỉ có trí huệ Phật. Nếu có Bồ Tát nào. Ở trong hàng chúng này. Có thể một lòng nghe. Pháp thật của các Phật. Các Đức Phật Thế Tôn. Dầu dùng chước phương tiện. Mà chúng sanh được độ. Đều là Bồ Tát cả.

32. Nếu có người trí nhỏ. Quá mê nơi ái dục. Phật bèn vì bọn này. Mà nói lý khổ đế. Chúng sanh nghe lòng mừng. Được điều chưa từng có. Đức Phật nói khổ đế. Chơn thật không sai khác. Nếu lại có chúng sanh. Không rõ biết gốc khổ. Quá say nơi khổ nhân. Chẳng tạm rời bỏ được. Phật vì hạng người này. Dùng phương tiện nói dạy. Nguyên nhân có các khổ. Tham dục là cội gốc. Nếu dứt được tham dục. Khổ không chỗ nương đỗ. Dứt hết hẳn các khổ. Gọi là đế thứ ba. Vì chứng diệt đế vậy. Mà tu hành đạo đế. Lìa hết các khổ phược. Gọi đó là giải thoát. Người đó nơi pháp gì. Mà nói được giải thoát? Chỉ xa rời hy vọng. Gọi đó là giải thoát. Kỳ thực chưa phải được. Giải thoát hẳn tất cả. Đức Phật nói người đó. Chưa phải thật diệt độ. Vì người đó chưa được. Đạo quả vô thượng vậy. Ý của ta không muốn. Cho đó đến diệt độ. Ta là đấng Pháp vương. Tự tại nơi các Pháp. Vì an ổn chúng sanh. Nên hiện ra nơi đời. Xá Lợi Phất phải biết. Pháp ấn của ta đây. Vì muốn làm lợi ích. Cho thế gian nên nói. Tại chỗ ông đi qua. Chớ có vọng tuyên truyền. Nếu có người nghe đến. Tùy hỷ kính nhận lấy. Phải biết rằng người ấy. Là bậc bất thối chuyển. Nếu có người tin nhận. Kinh pháp vô thượng này. Thời người đó đã từng. Thấy các Phật quá khứ. Cung kính và cúng dường. Cũng được nghe pháp này. Nếu người nào có thể. Tin chịu lời ông nói. Thời chính là thấy Ta. Cũng là thấy nơi ông. Cùng các chúng Tỳ kheo. Và các hàng Bồ Tát.

33. Phật vì người trí sâu. Nói kinh Pháp Hoa này. Kẻ thức cạn nghe đến. Mê lầm không hiểu được. Tất cả hàng Thanh văn. Cùng với Bích chi Phật. Ở trong kinh pháp này. Sức kia không hiểu được. Chính ông Xá Lợi Phất. Hãy còn nơi kinh này. Dùng lòng tin được vào. Huống là Thanh văn khác. Bao nhiêu Thanh văn khác. Do tin theo lời Phật. Mà tùy thuận kinh này. Chẳng phải trí của mình.

34. Lại này Xá Lợi Phất! Kẻ kiêu mạn biếng lười. Vọng so chấp lấy ngã. Chớ vì nói kinh này. Hạng phàm phu biết cạn. Quá mê năm món dục. Nghe pháp không hiểu được. Cũng chẳng nên vì nói. Nếu có người không tin. Khinh hủy chê kinh này. Thời là dứt tất cả. Giống Phật ở thế gian. Nếu có người sịu mặt. Mà ôm lòng nghi hoặc. Ông nên lóng nghe nói. Tội báo của người đó. Hoặc Phật còn tại thế. Hoặc sau khi diệt độ. Nếu có người chê bai. Kinh điển như thế này. Thấy có người đọc tụng. Biên chép thọ trì kinh. Rồi khinh tiện ghét ghen. Mà ôm lòng kết hờn. Tội báo của người đó. Ông nay lại lóng nghe. Người đó khi mạng chung. Sa vào ngục A tỳ. Đầy đủ một kiếp chẳn. Kiếp mãn hết lại sanh. Cứ xoay vần như thế. Nhẫn đến vô số kiếp. Từ trong địa ngục ra. Sẽ đọa vào súc sanh. Hoặc làm chó, dã can. Thân thể nó ốm gầy. Đen điu thêm ghẻ lác. Bị người thường chọc ghẹo. Lại còn phải bị người. Gớm nhờm và ghét rẻ. Thường ngày đói khát khổ. Xương thịt đều khô khan. Lúc sống chịu khổ sở. Chết bị ném ngói đá. Vì đoạn mất giống Phật. Nên thọ tội báo đó. Hoặc sanh làm lạc đà. Hoặc sanh vào loài lừa. Thân thường mang kéo nặng. Lại thêm bị đánh đập. Chỉ nhớ tưởng: nước, cỏ. Ngoài ra không biết gì. Vì khinh chê kinh này. Mà mắc tội như vậy. Có khi làm dã can. Đi vào trong xóm làng. Thân thể đầy ghẻ lác. Lại chột hết một mắt. Bị bọn trẻ nhỏ vây. Theo đánh đập liệng ném. Chịu nhiều các đau khổ. Hoặc có lúc phải chết. Ở đây vừa chết rồi. Liền lại thọ thân rắn. Thân thể nó dài lớn. Đến năm trăm do tuần. Điếc ngây và không chân. Lăn lóc đi bằng bụng. Bị các loài trùng nhỏ. Cắn rúc ăn thịt máu. Bị khổ cả ngày đêm. Không tạm có ngừng nghỉ. Vì khinh chê kinh này. Mà mắc tội như vậy. Nếu được sanh làm người. Các căn đều ám độn. Lùn xấu lại lệch què. Đui điếc thêm lưng gù. Có nói ra lời gì. Mọi người không tin nhận. Hơi miệng thường hôi thối. Bị quỷ mị dựa nhập. Nghèo cùng rất hèn hạ. Bị người sai khiến luôn. Nhiều bệnh thân ốm gầy. Không có chỗ cậy nhờ. Dù nương gần với người. Mà người chẳng để ý. Nếu có được điều chi. Thời liền lại quên mất. Nếu học qua nghề thuốc. Theo đúng phép trị bịnh. Mà bệnh người nặng thêm. Hoặc có khi đến chết. Nếu tự mình có bệnh. Không người chữa lành được. Dù có uống thuốc hay. Mà bệnh càng thêm nặng. Hoặc người khác phản nghịch. Cướp giật trộm lấy của. Các tội dường thế đó. Lại tự mang vạ lây. Những người tội như đây. Trọn không thấy được Phật. Là vua trong hàng Thánh. Thường nói pháp giáo hóa. Những người tội như đây. Thường sanh chỗ hoạn nạn. Tâm cuồng loạn, tai điếc. Trọn không nghe pháp được. Trải qua vô số kiếp. Như số cát sông Hằng. Sanh ra liền điếc câm. Các căn chẳng đầy đủ. Thường ở trong địa ngục. Như dạo chơi vườn nhà. Ở tại các đạo khác. Như ở nhà cửa mình. Lạc đà, lừa, lợn, chó. Là chỗ kia thường đi. Vì khinh chê kinh này. Mắc tội dường thế đó. Nếu được sanh làm người. Điếc, đui lại câm, ngọng. Nghèo cùng các tướng suy. Dùng đó tự trang nghiêm. Sưng bủng bệnh khô khát. Ghẻ, lác, cùng ung thư. Các bệnh như trên đó. Dùng làm y phục mặc. Thân thể thường hôi hám. Nhơ nhớp không hề sạch. Lòng chấp ngã sâu chặt. Thêm nhiều tánh giận hờn. Tình dâm dục hẫy hừng. Đến chẳng chừa cầm thú. Vì khinh chê kinh này. Mắc tội dường thế đó.

35. Bảo cho Xá Lợi Phất! Người khinh chê kinh này. Nếu kể nói tội kia. Cùng kiếp cũng chẳng hết. Vì bởi nhân duyên đó. Ta vẫn bảo các ông. Trong nhóm người vô trí. Chớ nên nói kinh này. Nếu có người lợi căn. Sức trí huệ sáng láng. Học rộng và nhớ dai. Lòng mong cầu Phật đạo. Những hạng người như thế. Mới nên vì đó nói. Nếu có người đã từng. Thấy trăm nghìn ức Phật. Trồng các cội đức lành. Thâm tâm rất bền vững. Hạng người được như thế. Mới nên vì đó nói. Nếu có người tinh tấn. Thường tu tập lòng từ. Chẳng hề tiếc thân mạng. Mới nên vì đó nói. Nếu có người cung kính. Không có sanh lòng khác. Lìa xa các phàm phu. Ở riêng trong núi thẩm. Những hạng người như thế. Mới nên vì đó nói. Lại Xá Lợi Phất này! Nếu thấy có người nào. Rời bỏ ác tri thức. Gần gũi bạn hiền lành. Người được như thế ấy. Mới nên vì đó nói. Nếu thấy hàng Phật tử. Giữ giới hạnh trong sạch. Như minh châu sáng sạch. Ham cầu kinh Đại thừa. Những người được như thế. Mới nên vì đó nói. Nếu người không lòng giận. Chắc thật ý dịu hòa. Thường thương xót mọi loài. Cung kính các Đức Phật. Hạng người tốt như thế. Mới nên vì đó nói. Lại có hàng Phật tử. Ở tại trong đại chúng. Thuần dùng lòng thanh tịnh. Các món nhân cùng duyên. Thí dụ và lời lẽ. Nói pháp không chướng ngại. Những người như thế ấy. Mới nên vì đó nói. Nếu có vị Tỳ kheo. Vì cầu nhứt thiết trí. Khắp bốn phương cầu pháp. Chắp tay cung kính thọ. Chỉ ưa muốn thọ trì. Kinh điển về Đại thừa. Nhẫn đến không hề thọ. Một bài kệ kinh khác. Hạng người được như thế. Mới nên vì đó nói. Như có người chí tâm. Cầu xá lợi của Phật. Cầu kinh cũng như thế. Được rồi đỉnh lễ thọ. Người đó chẳng còn lại. Có lòng cầu kinh khác. Cũng chưa từng nghĩ tưởng. Đến sách vở ngoại đạo. Người được như thế ấy. Mới nên vì đó nói. Bảo cùng Xá Lợi Phất! Ta nói các sự tướng. Của người cầu Phật đạo. Cùng kiếp cũng chẳng hết. Những người như thế đó. Thời có thể tin hiểu. Ông nên vì họ nói. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.


THÍCH NGHĨA
(1) Lậu tận: Nhiễm tâm phiền não đã hết sạch, đồng nghĩa với: “Vô Lậu”.
(2) Thân Phật sắc vàng tử kim đủ 32 tướng tốt.
(3) Trí của Phật có 10 lực dụng: 1. Thị xứ phi xứ trí lực, 2. Nghiệp trí lực, 3. Thiền định trí lực, 4. Căn tính trí lực, 5. Nguyện dục trí lực, 6. Giới trí lực, 7. Đạo chí xử trí lực, 8. Túc mạng trí lực, 9. Thiên nhãn trí lực, 10. Lậu tận trí lực.
(4) Bất cộng: Bồ Tát cùng Thanh văn Duyên giác đều không có, riêng Phật là có 18 pháp này.
(5) 'Bồ Đề': Giác; 'tát đỏa': Hữu tình; nói tắt là Bồ Tát, tức là bậc đã tự hay giác ngộ và có thể cứu độ giác ngộ loài hữu tình.
(6) Tức là Bà la môn.
(7) Tên của Ma vương ở đầu cõi dục.
(8) Ngũ uẩn: Sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn. Cũng gọi là ngũ ấm.
(9) Ngũ dục: 1. Tài (sắc), sắc, danh, thực (sự ăn), thùy (ngủ nghỉ). 2. Sắc, thanh, hương, vị, xúc.
(10) Bốn đức vô sở úy của Phật: 1. Nhất thiết trí vô úy, 2. Lậu tận vô úy, 3. Thuyết đạo vô úy, 4. Thuyết khổ tận đạo vô úy.
(11) Năm căn: tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn. Năm lực: tín lực, tinh tấn lực, niệm lực, định lực, tuệ lực. Bảy giác chi: Trạch pháp, niệm, tinh tấn, hỷ, khinh an, định, xả. Tám chánh đạo: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh niệm, chánh tinh tấn, chánh định.
(12) Súy: Cú tai mèo. Hiêu, Điêu, Thứu: Loài chim dữ, tiếng xấu. Thước: Chim khách. Cưu: Tu-hú. Cáp: Bồ câu. Ngoan xà: Rắn độc. Phúc Yết: Bò-cạp. Ngô Công: Rít. Do diên: Trùng, rận ở trong áo tơi. Dứu ly: Chồn, cáo. Hề thử: Giống chuột. Khương lương: Bọ hung.
(13) Thiên nhãn minh, Túc mạng minh, Lậu tận minh.
(14) Thiên nhãn thông, thần túc thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc mạng thông, lậu tận thông.