Phẩm Phân Biệt Công Đức Thứ Mười Bảy

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA - PHẨM PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC THỨ MƯỜI BẢY
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập Hán Dịch. Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh Việt Dịch

1. Lúc bấy giờ, trong đại hội nghe Phật nói thọ mệnh, kiếp số dài lâu như thế, vô lượng, vô biên, vô số chúng sanh được lợi ích lớn.

Khi đó, Đức Thế Tôn bảo Ngài Di Lặc đại Bồ tát: "A Dật Đa! Lúc Ta nói Đức Như Lai thọ mệnh dài lâu như thế, có sáu trăm tám muôn ức na do tha hằng hà sa chúng sanh được "Vô sanh pháp nhẫn"(12). Lại có đại Bồ Tát nghìn lần gấp bội được môn "Văn trì đà la ni"(13). Lại có một thế giới vi trần số đại Bồ Tát được "Nhạo thuyết vô ngại biện tài"(14). Lại có một thế giới vi trần số đại Bồ Tát được trăm nghìn muôn ức vô lượng môn "Triền đà la ni". Lại có tam thiên đại thiên thế giới vi trần số đại Bồ Tát chuyển được "Pháp luân bất thối".

Lại có nhị thiên trung quốc độ vi trần số đại Bồ Tát chuyển được "Pháp luân thanh tịnh". Lại có Tiểu thiên quốc độ vi trần số đại Bồ Tát tám đời sẽ được vô thượng chánh đẳng chánh giác. Lại có bốn Tứ thiên hạ(15) vi trần số đại Bồ Tát bốn đời sẽ được chánh đẳng chánh giác. Lại có ba tứ thiên hạ vi trần số đại Bồ Tát ba đời sẽ được vô thượng chánh đẳng chánh giác. Lại có hai tứ thiên hạ vi trần số đại Bồ Tát hai đời sẽ được vô thượng chánh đẳng chánh giác. Lại có một tứ thiên hạ vi trần số đại Bồ Tát một đời sẽ được vô thượng chánh đẳng chánh giác. Lại có tám thế giới vi trần số chúng sinh đều phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác."

2. Lúc Đức Phật nói các vị đại Bồ Tát đó được pháp lợi(16), trên giữa hư không, rưới hoa mạn đà la, hoa ma ha mạn đà la để rải vô lượng trăm nghìn muôn ức các Đức Phật ngồi trên tòa sư tử dưới gốc cây báu, và rải Đức Thích Ca Mâu Ni Phật cùng Đức Đa Bửu Phật ngồi trên tòa sư tử trong tháp bảy báu: cùng rải tất cả các đại Bồ Tát và bốn bộ chúng. Lại rưới bột gỗ chiên đàn, trầm thủy hương v.v… trong hư không, trống trời tự kêu tiếng hay sâu xa. Lại rải nghìn thứ thiên y, thòng các chuỗi ngọc trân châu, chuỗi châu ma ni, chuỗi châu như ý khắp cả chín phương, các lò hương báu đốt hương vô giá, tự nhiên khắp đến cúng dường đại chúng. Trên mỗi Đức Phật có các vị Bồ Tát nắm cầm phan lọng, thứ đệ mà lên đến trời Phạm Thiên. Các vị Bồ Tát đó dùng tiếng tăm hay, ca vô lượng bài tụng ngợi khen các Đức Phật. Khi ấy Ngài Di Lặc Bồ Tát từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo bày vai hữu, chắp tay hướng về phía Phật mà nói kệ rằng:

3. Phật nói pháp ít có. Từ xưa chưa từng nghe. Thế Tôn có sức lớn. Thọ mệnh chẳng thể lường. Vô số các Phật tử. Nghe Thế Tôn phân biệt. Nói được pháp lợi đó. Vui mừng đầy khắp thân. Hoặc trụ bậc bất thối. Hoặc được đà la ni. Hoặc vô ngại nhạo thuyết. Muôn ức triên tổng trì. Hoặc có cõi đại thiên. Số vi trần Bồ Tát. Mỗi vị đều nói được. Pháp luân bất thối chuyển. Hoặc có trung thiên giới. Số vi trần Bồ Tát. Mỗi vị đều có thể. Chuyển pháp luân thanh tịnh. Lại có tiểu thiên giới. Số vi trần Bồ Tát. Còn dư lại tám đời. Sẽ được thành Phật đạo. Lại có bốn, ba, hai. Tứ thiên hạ như thế. Số vi trần Bồ Tát. Theo số đời thành Phật. Hoặc một tứ thiên hạ. Số vi trần Bồ Tát. Còn dư có một đời. Sẽ thành nhất thiết trí. Hàng chúng sanh như thế. Nghe Phật thọ dài lâu. Được vô lượng quả báo. Vô lậu rất thanh tịnh. Lại có tám thế giới. Số vi trần chúng sanh. Nghe Phật nói thọ mệnh. Đều phát tâm vô thượng.

4. Thế Tôn nói vô lượng. Bất khả tư nghì pháp. Nhiều được có lợi ích. Như hư không vô biên. Rưới hoa thiên mạn đà. Hoa ma ha mạn đà. Thích, Phạm như hằng sa. Vô số cõi Phật đến. Rưới chiên đàn trầm thủy. Lăng xăng loạn sa xuống. Như chiêm bay liệng xuống. Rải cúng các Đức Phật. Trống trời trong hư không. Tự nhiên vang tiếng mầu. Áo trời nghìn muôn thứ. Xoay chuyển mà rơi xuống. Các lò hương đẹp báu. Đốt hương quý vô giá. Tự nhiên đều cùng khắp. Cúng dường các Thế Tôn. Chúng đại Bồ Tát kia. Cầm phan lọng bảy báu. Cao đẹp muôn ức thứ. Thứ lớp đến Phạm Thiên. Trước mỗi mỗi Đức Phật. Tràng báu treo phan tốt. Cũng dùng nghìn muôn kệ. Ca vịnh các Như Lai. Như thế các món việc. Từ xưa chưa từng có. Nghe Phật thọ vô lượng. Tất cả đều vui mừng. Phật tiếng đồn mười phương. Rộng lợi ích chúng sanh. Tất cả đủ căn lành. Để trợ tâm vô thượng.

5. Lúc bấy giờ, Phật bảo Ngài Di Lặc đại Bồ Tát rằng: "A Dật Đa! Có chúng sanh nào nghe Đức Phật thọ mệnh dài lâu như thế, nhẫn đến có thể sinh một niệm tín giải, được công đức không hạn lượng được. Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân, vì đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác, trong tám muôn ức na do tha kiếp tu năm pháp ba la mật: bố thí ba la mật, trì giới ba la mật, nhẫn nhục ba la mật, tinh tấn ba la mật, thiền định ba la mật, trừ trí tuệ ba la mật, đem công đức này sánh với công đức tín giải trước, trăm phần, nghìn phần, trăm nghìn muôn ức phần chẳng kịp một, nhẫn đến tính đếm, thí dụ, không thể biết được. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân có công đức như thế mà thối thất nơi vô thượng chánh đẳng chánh giác, thời quyết không có lẽ đó. Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

6. Nếu người cầu tuệ Phật. Trong tám mươi muôn ức. Na do tha kiếp số. Tu năm ba la mật. Ở trong các kiếp đó. Bố thí cúng dường Phật. Và Duyên Giác đệ tử. Cùng các chúng Bồ Tát. Đồ uống ăn báu lạ. Thượng phục và đồ nằm. Chiên đàn dựng tinh xá. Dùng vườn rừng trang nghiêm. Bố thí như thế thảy. Các món đều vi diệu. Hết các kiếp số này. Để hồi hướng Phật đạo. Nếu lại gìn cấm giới. Thanh tịnh không thiếu sót. Cầu nơi đạo vô thượng. Được các Phật khen ngợi. Nếu lại tu nhẫn nhục. Trụ nơi chỗ điều nhu. Dầu các ác đến hại. Tâm đó chẳng khuynh động. Các người có được pháp. Cưu lòng tăng thượng mạn. Bị bọn này khinh não. Như thế đều nhẫn được. Hoặc lại siêng tinh tấn. Chí niệm thường bền vững. Trong vô lượng ức kiếp. Một lòng chẳng trễ thôi. Lại trong vô số kiếp. Trụ nơi chỗ vắng vẻ. Hoặc ngồi hoặc kinh hành. Trừ ngủ thường nhiếp tâm. Do các nhân duyên đó. Hay sinh các thiền định. Tám mươi ức muôn kiếp. An trụ tâm chẳng loạn. Đem phước thiền định đó. Nguyện cầu đạo vô thượng. Ta được nhất thiết trí. Tận ngằn các thiền định. Người đó trong trăm nghìn. Muôn ức kiếp số lâu. Tu các công đức này. Như trên đã nói rõ. Có thiện nam, tín nữ. Nghe ta nói thọ mệnh. Nhẫn đến một niềm tin. Phước đây hơn phước kia. Nếu người trọn không có. Tất cả các nghi hối. Thân tâm giây lát tin. Phước đó nhiều như thế. Nếu có các Bồ Tát. Vô lượng kiếp hành đạo. Nghe ta nói thọ mệnh. Đây thời tin nhận được. Các hàng người như thế. Đảnh thọ kinh điển này. Nguyện ta thuở vị lai. Sống lâu độ chúng sanh. Như Thế Tôn ngày nay. Vua trong các họ Thích. Đạo tràng rền tiếng lớn. Nói pháp không sợ sệt. Chúng ta đời vị lai. Được mọi người tôn kính. Lúc ngồi nơi đạo tràng. Nói thọ mệnh cũng thế. Nếu có người thâm tâm. Trong sạch mà ngay thực. Học rộng hay tổng trì. Tùy nghĩa giải lời Phật. Những người như thế đó. Nơi đây không có nghi.

7. Lại A Dật Đa! Nếu có người nghe nói Đức Phật thọ mệnh dài lâu, hiểu ý thú của lời nói đó, người này được công đức không có hạn lượng, có thể sanh huệ vô thượng của Như Lai. Huống là người rộng nghe kinh này, hoặc bảo người nghe, hoặc tự chép, hoặc bảo người chép, hoặc đem hoa hương, chuỗi ngọc, tràng phan, lọng nhiễu, dầu thơm, đèn nến cúng dường quyển kinh, công đức của người này vô lượng vô biên có thể sanh nhất thiết chủng trí.

A Dật Đa! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân nghe ta nói thọ mệnh dài lâu sinh lòng tin hiểu chắc, thời chính là thấy Đức Phật thường ở núi Kỳ Xà Quật, cùng chúng Bồ Tát lớn và hàng Thanh Văn vây quanh nói pháp.

Lại thấy cõi Ta bà này đất bằng lưu ly ngang liền bằng phẳng, dây vàng Diêm phù đàn để ngăn tám nẻo đường, cây báu bày hàng, các đài lầu nhà thảy đều các thú báu hợp thành, chúng Bồ Tát đều ở trong đó. Nếu có người tưởng quán được như thế, phải biết đó là tướng tin hiểu sâu chắc.

Và lại sau Đức Như Lai diệt độ, nếu có người nghe kinh này mà không chê bai, sanh lòng tùy hỷ phải biết đó đã là tướng tin hiểu sâu chắc, huống là người đọc, tụng, thọ trì kinh này, người này thời là kẻ đầu đội Đức Như Lai.

A Dật Đa! Thiện nam tử cùng thiện nữ nhân đó chẳng cần lại vì ta mà dựng chùa tháp, và cất tăng phường dùng bốn sự cúng dường để cúng dường chúng Tăng. Vì sao? Vì thiện nam tử, thiện nữ nhân đó thọ trì, đọc tụng kinh điển này thời là đã dựng tháp tạo lập tăng phường cúng dàng chúng Tăng, thời là đem Xá lợi của Phật dựng tháp bảy báu cao rộng nhỏ lần lên đến trời Phạm Thiên, treo các phan lọng và các linh báu, hoa, hương, chuỗi ngọc, hương bột, hương xoa, hương đốt, các trống, kỹ nhạc, ống tiêu, ống địch, không hầu các thứ múa chơi, dùng tiếng giọng tốt ca ngâm khen ngợi, thời là ở trong vô lượng nghìn muôn ức kiếp đã làm việc cúng dường đó rồi.

A Dật Đa! Nếu sau khi ta diệt độ, nghe kinh điển này, có người hay thọ trì, hoặc tự chép hoặc bảo người chép, đó là dựng lập tăng phường, dùng gỗ chiên đàn đỏ làm các cung điện nhà cửa ba mươi hai sở, cao bằng tám cây đa la, cao rộng nghiêm đẹp, trăm nghìn tỳ kheo ở nơi trong đó. Vườn, rừng, ao tắm, chỗ kinh hành, hang ngồi thiền, y phục đồ uống ăn, giường nệm, thuốc thang tất cả đồ vui dẫy đầy trong đó, tăng phường có ngần ấy trăm nghìn muôn ức nhà gác như thế, số đó nhiều vô lượng, dùng để hiện tiền cúng dường nơi ta và tỳ kheo tăng.

Cho nên ta nói: Sau khi Như Lai diệt độ nếu có người thọ trì, đọc tụng, vì người khác nói, hoặc mình chép hoặc bảo người chép, cúng dường kinh quyển thời chẳng cần lại dựng chùa tháp và tạo lập tăng phường cúng dường chúng Tăng. Huống lại có người hay thọ trì kinh này mà gồm tu hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục tinh tấn, nhất tâm, trí tuệ, công đức của người đây rất thù thắng vô lượng vô biên.

Thí như hư không, đông, tây, nam, bắc, bốn phía trên, dưới vô lượng vô biên, công đức của người đó cũng lại như thế vô lượng vô biên mau đến bậc nhất thiết chủng trí. Nếu có người đọc tụng, thọ trì kinh này vì người khác nói, hoặc tự chép, hoặc bảo người chép, lại có thể dựng tháp cùng tạo lập tăng phường cúng dường khen ngợi chúng Thanh Văn Tăng, cũng dùng trăm nghìn muôn pháp ngợi khen mà ngợi khen công đức của Bồ Tát.

Lại vì người khác dùng các món nhân duyên theo nghĩa giải nói kinh Pháp Hoa này, lại có thể thanh tịnh trì giới cùng người nhu hòa mà chung cùng ở, nhẫn nhục không sân, chí niệm bền vững, thường quý ngồi thiền được các món định sâu, tinh tấn mạnh mẽ nhiếp các pháp lành, căn lành trí sáng, giỏi gạn hỏi đáp.

A Dật Đa! Nếu sau khi ta diệt độ các thiện nam tử, thiện nữ nhân thọ trì, đọc tụng kinh điển này lại có các công đức lành như thế, phải biết người đó đã đến đạo tràng gần vô thượng chánh đẳng chánh giác ngồi dưới gốc đạo thọ.

A Dật Đa! Chỗ của thiện nam tử cùng thiện nữ nhân đó hoặc ngồi, hoặc đứng, hoặc đi, trong đó bèn nên xây tháp, tất cả trời người đều phải cúng dường như tháp của Phật. Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

8. Sau khi ta diệt độ. Hay phụng trì kinh này. Người đó phúc vô lượng. Như trên đã nói rõ. Đó thời là đầy đủ. Tất cả các cúng dường. Dùng Xá lợi xây tháp. Bảy báu để trang nghiêm. Chùa chiền rất cao rộng. Nhỏ lần đến Phạm thiên. Linh báu nghìn muôn ức. Gió động vang tiếng mầu. Lại trong vô lượng kiếp. Mà cúng dường tháp đó. Hoa hương, các chuỗi ngọc. Thiên y, các kỹ nhạc. Thắp đèn dầu nến thơm. Quanh khắp thường soi sáng. Lúc đời ác mạt pháp. Người hay trì Kinh này. Thời là đã đầy đủ. Các cúng dường như trên. Nếu hay trì Kinh này. Thời như Phật hiện tại. Dùng ngưu đầu chiên đàn. Dựng tăng phường cúng dường. Nhà ba mươi hai sở. Cao tám cây đa la. Đồ ngon y phục tốt. Giường nằm đều đầy đủ. Trăm nghìn chúng nương ở. Vườn rừng các ao tắm. Chỗ kinh hành, ngồi thiền. Các món đều nghiêm tốt. Nếu có lòng tín hiểu. Thọ trì, đọc tụng biên. Nếu lại bảo người biên. Và cúng dường kinh quyển. Rải hoa hương, hương bột. Dùng tu mạn, chiêm bặc. A đề, mục đa dà. Ướp dầu thường đốt đó. Người cúng dường như thế. Được công đức vô lượng. Như hư không vô biên. Phước đó cũng như thế. Huống lại trì kinh này. Gồm bố thí trì giới. Nhẫn nhục ưa thiền định. Chẳng sân, chẳng ác khẩu. Cung kính nơi tháp miếu. Khiêm hạ các tỳ kheo. Xa lìa tâm tự cao. Thường nghĩ suy trí tuệ. Có gạn hỏi chẳng sân. Tùy thuận vì giải nói. Nếu làm được hạnh đó. Công đức chẳng lường được. Nếu thấy Pháp sư này. Nên công đức như thế. Phải dùng hoa trời rải. Áo trời trùm thân kia. Đầu mặt tiếp chân lạy. Sinh lòng tưởng như Phật. Lại nên nghĩ thế này. Chẳng lâu đến đạo thọ. Được vô lậu vô vi. Rộng lợi các người trời. Chỗ trụ chỉ của kia. Kinh hành hoặc ngồi nằm. Nhẫn đến nói một kệ. Trong đây nên xây tháp. Trang nghiêm cho tốt đẹp. Các món đem cúng dường. Phật tử ở chỗ này. Thời là Phật thọ dụng. Thường ở nơi trong đó. Kinh hành và ngồi nằm.


KINH DIỆU PHÁP LIÊU HOA
QUYỂN THỨ NĂM

Toàn cầu an lạc, bốn pháp bền tu. Thân đặng “Kế châu” nổi tiếng nhà. Ba cõi bãi đao binh, bổn và tích đều rõ. Sa giới chúng ngộ vô sanh.

Nam Mô Pháp Hoa Hội Thượng Phật Bồ Tát (3 lần)

Đức Văn Thù khải cáo, vừa giúp chơn thuyên, bền giữ bốn pháp được an nhiên, từ đất vọt lên chúng nhiều nghìn, Ngài A Dật Đa trùng tuyên, thọ lượng rộng vô biên.

Nam Mô A Dật Đa Bồ Tát (3 lần)


THÍCH NGHĨA
(12) Vô sanh Pháp nhẫn: Sức trí nhận chắc nơi thể vô sanh của các pháp.
(13) Đà la ni: Tiếng Phạm dịch là "tổng trì", được môn văn trì đà la ni nay thời nghe pháp đều có thể hiểu nhớ tất cả.
(14) Vô biện tài: Đặng môn này thời ưa thích nói pháp không nhàm, không trệ ngại, tài biện luận vô tận.
(15) Tứ châu thiên hạ: Ngoài bốn phía núi Tu di, trong biển "Đại hàm hải" có 4 châu 1. Đông Thắng Thần Châu, 2. Tây Ngưu Hóa Châu, 3. Bắc Cu Lô Châu, 4. Nam Thiệm Bộ Châu cũng gọi Nam Diêm Phù Đề chính là cõi đất chúng ta hiện ở.
(16) Pháp lợi: Vì nhơn duyên nghe pháp mà đặng lợi ích.


SỰ TÍCH
TẢ KINH CỨU BẠN ĐỒNG HỌC

Đời Tùy, niên hiệu Đại Nghiệp, có vị Khách Tăng đi đến miếu núi Thái Sơn, muốn tạm nghỉ. Người giữ miếu nói: "Đây không có nhà nào khác, chỉ dưới hiên của miếu Thần có thể tạm nghỉ, nhưng vì gần đây, những người nghỉ nơi đó đều chết cả".

Khách Tăng nói: "Không hề gì cho ta tạm nghỉ nơi đó". Người giữ miếu bất đắc dĩ y lời dọn giường cho Khách Tăng nghỉ dưới hiên miếu.

Tối đến, Khách Tăng ngồi ngay thẳng tụng Kinh. Ước chừng một canh sau, nghe trong màn có tiếng vàng ngọc khua, giây lát có vị thần từ trong màn ra lễ lạy Khách Tăng. Khách Tăng nói: "Nghe người nói trước đây nhiều người bị chết tại chốn này, có phải là Đàn Việt hại đó chăng, xin chớ hại ta". Thần nói: "Ngày trước tình cờ những người mạng số sắp chết, nghe tiếng động của đệ tử, nhơn quá sợ mà chết, chớ chẳng phải đệ tử làm hại, xin thầy chớ lo". Khách Tăng mời Thần ngồi nói chuyện. Lát sau, Khách Tăng hỏi: "Nghe nói Thần Thái Sơn cai trị loài quỷ, có thật chăng? ".

Thần đáp: "Đệ tử phước bạc, chính có thế. Có phải thầy muốn biết rõ việc người thân của Thầy đã chết chăng? "

Tăng nói: "Ta có hai bạn đồng học đã chết muốn thấy đó".

Thần hỏi tên hiệu rồi nói: "Một người đã đầu thai làm người, còn một người bị tội nặng đương ở địa ngục, không thể kêu đến nếu Thầy muốn thấy cũng có thể được".

Tăng rất mừng, liền đứng dậy đi theo Thần. Không bao xa thấy nhà ngục lửa cháy đỏ rực. Thần dắt Tăng vào một nhà, xa thấy một người đương ở trong lửa rên la nói không ra tiếng, thân thể nám đen không nhìn được, mùi thịt cháy hôi khét khiến người đau lòng.

Thần nói: "Chính ông ấy đó, Thầy còn muốn đi xem vài nơi khác chăng?".

Tăng buồn rầu xin trở về. Giây lát đến miếu, lại cùng Thần ngồi, Tăng hỏi Thần cách cứu bạn học. Thần nói: "Có thể đặng lắm. Thầy nếu tả được cho ông ấy một bộ Kinh Pháp Hoa, thời chắc ông ấy đặng khỏi".

Bấy giờ gần sáng. Thần từ biệt Tăng vào trong.

Sáng, người giữ miếu thấy Khách Tăng vẫn yên lành lấy làm lạ hỏi. Tăng thuật chuyện trong đêm lại.

Khách Tăng về chùa vì bạn tả Kinh Pháp Hoa, tả xong, đóng bìa cắt xén tử tế, lại mang Kinh đến miếu. Đêm đó Thần ra chào hỏi mừng rỡ, hỏi thăm đến có việc chi. Khách Tăng đem chuyện tả Kinh xong nói với Thần.

Thần nói: "Đệ tử đã biết rõ việc ấy, Thầy vì bạn tả Kinh, lúc mới chép đề mục thời ông ấy đã khỏi khổ, hiện đã thác sanh và nhân gian rồi, chỗ này không được tịnh khiết không thể thờ Kinh, xin Thầy đem về chùa".

Cùng nhau đàm luận, gần sáng, Thần từ biệt Khách Tăng vào trong, Tăng lại mang Kinh về chùa.

Quan Biệt Giá Trương Đức tự nói: "Khi ông trấn nhậm ở Châu Duyện có biết rõ việc trên".

(Lại bộ Thượng thơ Đường Lâm biên)